MỘ CỦA CỤ NGUYỄN THÔNG
Nhà thơ Nguyễn Thông sinh ngày 28 tháng 5 năm 1827 tại làng Bình Thạnh, Tổng Thanh Hội Hạ, phủ Tân An, tỉnh Gia Định, là người học rộng tài cao tự là Hy Phần hiệu là Kỳ Xuyên, biệt hiệu là Độn am, ông nổi tiếng là 1 danh sĩ dưới triều vua Tự Đức. Vào năm 23 tuổi, Nguyễn thông thi đổ cử nhân, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (năm 1849) ông làm chức Bố Chánh và đã góp nhiều công lao vào việc khào duyệt lại “Bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục’.
Khi quân Pháp chiếm mất 6 tỉnh Nam Kỳ ông đang giữ chức Đốc Học tại Vĩnh Long, ông tỏ ra là người có tinh thần bất khuất và đề cao các chiến sĩ chống Pháp dưới mọi hình thức. Phản đối sự nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn cũng như thực dân Pháp ông đem tất cả gia đình rời bỏ quê nhà ra ở đất Bình Thuận. Trong những năm ở đây ông đã chuẫn bị kế hoạch xây dựng căn cứ chống Pháp lâu dài, ông đã đi rất nhiều nơi trong tỉnh, đa phát hiện nhiều khu vực đất đai trù phú như khu vực sông La Ngà, Đức Linh, chính những điều mắt thấy tai nghe giúp ông viết được nhiều tác phẩm hay để lại cho đới sau: Ngoạ Du Sào Thi Văn Tập, Kỳ Xuyên Thi Văn Sao Lục, Độn Am Văn Tập, Kỳ Xuyên Công Độc, Dưỡng Chính Lục.
Ngoài việc sáng tác thơ văn ông là người đầu tiên tập hợp dân “tị địa” lập ra “Đồng Châu Xã” để giúp người nhập cư sống có tổ chức, làm ăn sản xuất ổn định tại Bình Thuận , ông được xem là người có công với người dân Bình Thuận trong việc khuyến học, mở mang dân trí, đó là việc ông đã cùng 2 người con lập ra trường Dục Thanh, ông đã xem Phan thiết là que hương thứ 2 của mình.
Nguyễn Thông mất vào ngày 27 tháng 8 năm Giáp Thân (7/7/1884), mộ của ông được xây cất ở dưới chân núi Cố (Ngọc Sơn), thôn Ngọc Lâm, xã Phú Hải – Phan Thiết. Khi còn sống Nguyễn thông thường hay tới đây, thấy vùng đất này đẹpnên đã có ý chọn làm nơi yên giấc ngàn thu. Nơi này có nhiều cây cối rậm rạp liền núi, cạnh biển có chim chóc tụ về quanh năm, đúng là 1 nơi sơn thủy hữu tình có phong thủy rất tốt.
Ngôi mộ của ông được xây dựng giản dị thể hiện được cuộc sống, tấm lòng và đức tính của ông. Mộ có chiều dài 9,45m, rộng 6m35, phần chính có đắp nổi hình kỳ lân như những ngôi mộ xưa. Trên mộ có tấm bia đá khắc chữ Hán với nội dung là 1 bài văn bia do chính ông sáng tác, có ý nghĩa: Sau khi ta trăm tuổi rồi, hồn phách còn nhớ đến núi này chăng , ho85c rốt cuộc cũng về chốn không có gì chăng? Điều đó không thể biết được. Còn như hoa rừng, tăng, biển, buồm ngư phủ, chòi tiều phu, vẻ lạ của khói mây thay đổi, hình thù của thuồng luồngchập chờn... Sau này cảnh đo có thể giúp cho cuộc sống thưởng ngoạn của đào nhân du khách vậy? “ Khu mộ của cụ Nguyễn Thông đâ được nhà Nước xép hạng là di tích lịch sử năm1999.
Tháp Cổ Pô Sha Nư
Kính thưa Quý Khách! Cách Lầu Ông Hoàng không xa chúng ta thấy 1 ngọn tháp nằm sừng sững trên ngọn đồi đó là tháp Chàm Poshanư. Tháp này còn có tên gọi là Phú Hải bởi vì tháp nằm trên ngọn đồi Bà Nài thuộc xã Phú Hải, cách trung tâm thành phố Phan Thiết 7 km về phí đông bắc được người chăm xây dựng trong thời gian cuối thế kỷ thứ VIII đến đầu TK IX.
Di tích này thuộc phong cách nghệ thuật Hoà Lai cùng loại tháp Khmer thời Chân Lạp, tháp có hình vuông, nhều tầng, ba ngôi tháp hiện còn nằm trên 2 tầng đất quay mặt về hướng Đông. Hàng năm vào tháng Giêng Am Lịch các lễ hội Rija Nưga, Pô Mbăng Yang của người Chăm được tổ chức dưới chân tháp để cầu mưa và cầu xin những điều tốt lành.
Nhóm tháp Pô – Sha – nư hiện nay gồm 3 tháp. Tháp chính A hơi nhích về phía Nam hai tháp phụ B hơi nhích về phía Bắc và C nhích về hướng Đông cạnh tháp A. Mục đích xây dựng nhóm tháp này của người Chăm xưa là để thờ thần Siva, một trong 3 vị thần sáng thế theo tín ngưỡng Bà La Môn được người Chămpa xưa tôn kính và sùng bái biểu hiện qua việc thờ Linga và Yoni ở trong tháp A (tháp chính)
Vào thế kỷ XV người Chăm tiếp tục xây dựng một số đền tháp theo lối kiến trúc đơn giảng để thờ công chúa Pô –sha – nư là con của vua Para Chanh được nhân dân yêu quý về tài đức và tư cách thương thân lễ độ của bà dành cho nhân dân lúc bấy giờ.
Những cuộc khai quật khảo cổ học từ năm 1992 – 1995 phát hiện được nhiều nền móng của những ngôi đền bị sụp đổ và bị vùi lấp hàng mấy trăm năm qua cùng với gạch ngói và 1 số hiện vật trong dòng các đền tháp có niên đại từ thế kỷ XV, từ đây tháp có tên là Pô – sha – nư. Nhóm tháp Pô – sha – nư giữ được vị thế quan trọng trong số các di tích kiến trúc người Chăm Bình Thuận. Từ hình dạng kiến trúc kỹ thuật xây dựng, trang trí nghệ thuật trên thân tháp đều có những nét đặc thù.
Tháp chính, từ trong lòng tháp lên đến đỉnh cao 15m, cạnh đáy mỗi bề gần 10m, 1 cửa chánh dài hướng về phía Đông là nơi cư ngụ của thần linh, có 3 cửa giả ở hướng Bắc, Tây, Nam. Trên vòm cuốn ở hướng Tây có những dãy chạm khắc dày đặc với những bông hoa và hình tượng lạ kỳ. Tháp có 4 tầng, càng lên cao càng thu nhỏ lại và giảm bớt những chi tiết kiến trúc của tầng dưới, trên đỉnh tháp có 4 cửa sổ hình tam giác hướng về 4 phía, bên ngoài xây bít kín, dưới mỗi cửa sổ gạch có 4 lỗ lớn để thông gió ra ngoài.
Tháp phụ B nằm riêng nhích về hướng Bắc cao khoảng 12m, hình dáng kiến trúc gần giống như tháp chính A nhưng đơn giản hơn. Trước kia trong tháp thờ Bò Thần Nađin nhưng về sau không còn nữa, năm 1995 trong lúc khai quật dưới lòng đất người ta tìm thấy 1 bàn chân và tai bò bằng đá.
Tháp phụ C chỉ còn lại với chiều cao hơn 4m, duy nhất có 1 cửa trổ về hướng Đông. Những chi tiết kiến trúc và trang trí nghệ thuật bên ngoài tháp đã bị thời gian bào mòn, chỉ còn lại một số đường nét chính.
Nhóm tháp Pô-sha-nư cũng được dân cư ngụ tại các vùng lân cận thờ phụng. Trước khi đi biển họ đến đây cầu nguyện xin cho những chuyến đi của họ được bình yên. Di tích này đã được nhà nước cho tu bổ tôn tạo vào năm 1990 – 2000 và đã được hoàn chỉnh được xếp hàng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1991.
Phế Tích Lầu Ông Hoàng
Nhìn sang bên phải trên 1 ngọn đồi, Quý Khách thấy 1 lô cốt bằng gạch đó chính là Phế Tích “Lầu Ông Hoàng”, đây là 1 địa danh do quần chúng gọi từ bao lâu , không chỉ là 1 nhà lầu bình thường. Vào năm 1911 một Ông Hoàng người Pháp là Công Tước De Montpensier qua Việt Nam du lịch và đi săn bắn. Công Tước tới những ngọn đồi lân cận Phan Thiết, thấy phong cảnh đẹp ông đã mua đấ xây dựng biệt thự để nghỉ ngơi vào những chuyến đi săn, du lịch. Công sứ Garnier đang cầm quyền đất Bình Thuận lúc bấy giờ đã đồng ý bán quả đồi Bà Nài cho ông Hoàng Pháp này.
Ngày 21 tháng 2 năm 1911, biệt thự được khởi công xây dựng, gần 1 năm sau mới hoàn thành với diện tích 536m2, gồm 13 phòng, khu vực xây biệt thự cách nhóm đền tháp Pô-sha-nư gần 100m về phía Nam, trong khi vận chuyển vật liệu lên đồi để xây biệt thự người Pháp đã làm hỏng tường thành phía trước cửa chánh tháp. Biệt thự xây xong đầy đủ tiện nghi, đẹp, có máy phát điện dưới hầm, có hồ chứa nước mưa đủ để dùng trong 1 năm được coi là tân tiến và hiện đại nhất Phan Thiết lúc bấy giờ, kể từ đó nhân dân Phan Thiết gọi khu vực biệt thự là đồi “Lầu Ông Hoàng”. Tháng 7 năm 1917 công tước De Montpensier bán khu biệt thự này cho 1 chủ khách sạn người Pháp tên Prasetts, cùng thời điểm đó 1 người Pháp khác tên là Bell cho xây dựng khách sạn Ngọc Lâm ở ngọn đồi bên cạnh để phục vụ người Pháp. Năm 1923 chính phủ Pháp đã mua lại khu biệt thự này cho vua Bảo Đại , nhưng vì đường xá xa xôi nên vua Bào Đại cũng ít đến đây 1 thời gian sau nơi này đã xuống cấp và bị hư hỏng.
Như tôi đã nói ở trên bởi vì Lầu Ong Hoàng được xây dựng trên ngọn đồi Bà Nài ở độ cao 40m so với mực nước biển nên đứng từ đây có thể quan sát toàn canh xung quanh. Chính vì vậy tháng 10/1946 thực dân Pháp đã biến nơi này thành đồn bót, làm nơi trú quân, gọi là “Đồn Lầu Ong Hoàng”. Vào ngày 14 tháng 6 năm 1947 nơi đây đã diễn ra 1 trận đánh ác liệt của 1 tiểu đội thuộc đơn vị Hoàng Hoa Thám do đồng chí Nguyễn Minh Châu chỉ huy đã tiêu diệt được nhiều lính Pháp, thu nhiều súng đạn đủ loại trong đó có 1 khẩu đại liên Vitke, 1 súng trung liên Bren và nhiều chiến lợi phẩm khác, từ đó người quen gọi chến thắng này là chiến thắng lầu Ong Hoàng, cho đến nay vì trài qua thời gian dài bị tàn phá bởi chiến tranh di tích chỉ còn lại nền đất như bây giờ.
CUỘC ĐỜI NHÀ THƠ HÀN MẠC TỬ
Nói đến Hàn Mạc Tử là nói đến một dòng thơ lãng mạn, hiện đại của Việt Nam, là người khởi xướng ra trường thơ loạn, trường thơ điên. Ông tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/09/1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Ông có duyên với bốn chữ Bình: Ông sinh tại Quảng Bình, làm báo tại Tân Bình, có người yêu tại Bình Thuận và mất tại Bình Định.
Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm. Ong cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ong được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ “ Thức khuya” của mình lên một tờ báo.
Vào năm 1932 bước vào đời làm việc tại Sở Đạc Điền Quy Nhơn và vào năm ấy ông có người yêu đầu tiên là Hoàng Thị Kim Cúc, người gốc Huế. Nhưng vì tính tình nhút nhát nên ông chỉ dám bày tỏ tình cảm của mình qua bài thơ Hồn Cúc :
“… Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn Cúc ở trong sương …”
Nhưng năm 1988 Kim Cúc bị tai nạn giao thông tại TPHCM, sau đó được đưa về Huế và mất tại đó. Có thể nói đám tang của bà lớn nhất ở Huế từ trước đến nay vì bà là Phó ban hướng dẫn TW gia đình Phật tử VN.
Sau này, ông được hội Tây Du giới thiệu đi học nước ngoài nhưng vì bọn mật thám biết ông có quan hệ mật thiết với cụ Phan Bội Châu nên đã gạch tên trong danh sách du học. Chính vì vậy ông quyết định lên Sài Gòn lập nghiệp, năm đó ông được 21 tuổi.
Lên Sài Gòn ông là phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.
Và bài thơ Phan Thiết ra đời :
“ …Ta lang thang tìm đến chốn lầu trăng
Lầu Ong Hoàng người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
Oi trời ơi ! Là Phan Thiết ! Phan Thiết
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận sông hằng
Thơ phép tắc bỗng kên rên thống thiết
Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư”
Ít lâu sau, ông mắc bệnh phong, một căn bệnh nan y thời đó. Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn. Trong thời gian ông ở Quy Nhơn ông đã cho ra tập thơ Gái Quê. Và Mai Đình là người con gái ở Thanh Hóa, khi đọc tập thơ Gái Quê đã đem lòng yêu mến ông. Khi Hàn đang bệnh Mai Đình thường xuyên ra thăm và chăm sóc ông. Nhưng cùng thời gian này ông đang quen Ngọc Sương, là dì ruột của Mộng Cầm.
“ Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối
Sương ở bên thềm chảy mãi thôi”
Nhưng hai mối tình này không đi sâu vào lòng Hàn Mạc Tử như mối tình ông dành cho Mộng Cầm. Khi Hàn mất Mai Đình đau đớn làm thơ với nội dung muốn chết theo Hàn nhưng vì còn bận kháng chiến, trả nợ với non nước nên với hẹn với Hàn rằng :
“Bao giờ tổ quốc toàn thắng
Là lúc tìm anh dưới suối vàng”
Sau này kết thúc kháng chiến Mai Đình đã lập gia đình với một vị tướng trong QĐNDVN. Người này rất hiểu và trân trọng tình yêu của Mai Đình với Hàn Mạc Tử.
Vào cuối cuộc đời, bệnh ông ngày càng nặng, người yêu thì chia xa, ông đau khổ về tinh thần lẫn thể xác. Chính vì thế mà nhà văn Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn mình bằng cách giới thiệu cho Hàn Mạc Tử một người yêu thơ Hàn, nàng tên Thương Thương, người Huế, gọi Trần Thanh Địch bằng chú. Những bức thư tình Thương Thương gửi cho Hàn hoàn toàn do Trần Thanh Địch tự phác họa ra. Hàn Mạc Tử cứ ngỡ mình đang yêu thật sự. Từ đó khoái cảm về mặt tinh thần mà sáng tác ra những vần thơ nổi tiếng.
“Chiều nay tàn tạ hồn hoa
Nhớ Thương Thương quá, xót xa tâm bào”
Hàn Mạc Tử sáng tác vở kịch “ Quần Tiên Hội” có nhân vật chính là Thương Thương trong tưởng tượng. Khi anh của Thương Thương phát hiện, tức giận ngăn cấm và vở kịch đã bị bỏ dở nửa chừng. Sau khi Hàn mất có một người cùng cảnh ngộ như Hàn đã viết tiếp vở kịch này và được giới nghệ sĩ đồng tình.
Ngày 20/09/1940 bệnh của Hàn Mạc Tử ngày càng nặng. Ông được đưa vào bệnh viện phong Quy Hoà nhưng sau 52 ngày chữa trị ông đã qua đời. Khi ông mất không hề có một người thân nào bên cạnh mà chỉ có các y bác sĩ.
Để tưởng nhớ một nhà thơ lớn của đất nước, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và một số văn nghệ sĩ đã dựng đài tưởng niệm ông với hình tượng một cây viết và quyển sách, đồng thời tại trại phong Quy Hoà vẫn còn giữ một phòng làm phòng lưu niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử.
Cuộc đời của Hàn được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dau ấn trong văn thơ của ông, có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ…
Hoàng Cúc :
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn Cúc ở trong sương
Ngọc Sương :
“Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối
Sương ở bên thềm chảy mãi thôi”
Mộng Cầm :
Đi thăm Hàn Mạc Tử ở trại phong Quy Hoà, Hàn Mạc Tử trốn không gặp, gửi tặng thơ cho Mộng Cầm.
“Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bước em đi
Hồn anh sẽ quyện trong làn gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì”
Thương Thương :
Thương Thương là cháu của Trần Thanh Địch (bạn thơ, rất thân với Hàn Mạc Tử). Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn nên bày chuyện gửi thư cho Hàn Mạc Tử :Viết rằng Thương Thương rất yêu Hàn Mạc Tử (thực ra Thương Thương còn nhỏ : 12 tuổi)
Hàn Mạc Tử xúc động viết tặng thơ :
“Chiều nay tàn tạ hồn hoa
Nhớ thương thương quá, xót xa tâm bào”
Hàn Mạc Tử sáng tác vở kịch “Quần Tiên Hội” có nhân vật chính là Thương Thương trong tưởng tượng. Sau đó anh của Thương Thương tức giận ngăn cấm, vở kịch bị bỏ dở nửa chừng. Sau khi Hàn Mạc Tử mất, có một người cũng cùng cảnh ngộ như Hàn Mạc Tử đã viết tiếp vở kịch này và được giới nghệ sĩ đồng tình.
Mai Đình :Giáo viên nữ công một trường tư thục, có cuộc sống sung túc, tinh thần thoải mái.
“Tối ăn chè bưởi, học đờn ca
Kẻ đến thưa cô, kẻ bẩm bà
Có bữa ngâm thơ quên cả ngủ
Quanh mình vây phủ đầy tiên nga”
Mai Đình yêu Hàn Mạc Tử, khi Hàn Mạc Tử gặp đau thương, Mai Đình nhiều lần từ Sài Gòn ra Quy Nhơn thăm và an ủi Hàn Mạc Tử.
Ngày Hàn Mạc Tử chết, Mai Đình đau đớn -> làm thơ , nội dung muốn chết theo Hàn Mạc Tử nhưng vì còn bận tham gia kháng chiến trả nợ với nước non nên hẹn với chàng :
“Bao giờ tổ quốc ca toàn thắng
Là lúc tìm anh dưới suối vàng.”
Sau này Mai Đình lập gia đình với một vị tướng trong QĐNDVN. Người này rất hiểu và trân trọng tình yêu của Mai Đình với Hàn Mạc Tử.
Mai đình lúc trên 70 tuổi vẫn làm thơ cho Hàn Mạc Tử :
“Em biết yêu em đã muộn màng
Nỗi niềm thương nhớ dễ gì an
Ghì trăng ôm gió tìm hương cũ
Tóc trắng, tình xanh, mộng chửa tàn”
Năm 2004, hãng phim truyền hình TPHCM ( TFS ) đã thực hiện bộ phim Hàn Mạc Tử để kỷ niệm ông. Một số bài thơ nổi tiếng đã được phổ nhạc vì tính lãng mạn của nó, một số bài được nhiều nhà phê bình đánh giá là hay và đưa vào sách giáo khoa bậc trung học như bài : Đây thôn Vỹ Dạ hay Mùa xuân Chín.
MÙA XUÂN CHÍN
Trong làn nắng ửng : khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
***
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
***
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
***
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Ao em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà.
Ngoài ra nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có phổ nhạc bài Hàn Mặc Tử như sau :
HÀN MẠC TỬ
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”
Đường lên dốc đá nữa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa. Lầu Ong Hoàng đó thửơ nào trăng Hàn Mạc Tử đã qua. Anh trăng treo nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng. Tiếng chim kêu đâu thương như nức nở dưới trời sương. Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người, tìm về giữa đêm buồn.
Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến. Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phê nhân. Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết. Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã vội tan. Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tan thương mà khổ đau niềm riêng.
Hàn Mạc Tử xuôi về quê cũ dấu thân nơi nhà hoang. Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc tủi cho nhau mà thôi. Tình đã lỡ xin một câu hứa kiếp sau ta trọn đôi. Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.
Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn ghềnh đón chân chàng đến. Người xưa nào biết chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa. Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ. Khóc thương thân bơ vơ cho đến một buổi chiều kia. Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao. Mạc Tử nay còn đâu.
Hàn Mặc Tử-nhà thơ có số phận kỳ lạ-Kỳ 1:Duyên kỳ ngộ với nhà yêu nước
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có cuộc đời và số phận hết sức lạ kỳ. Trong hơn nửa thế kỷ qua, rất nhiều cuốn sách, bài báo viết về con người này nhưng dường như vẫn còn nhiều điều không thể nói hết. Nhân dịp Đài Truyền hình TP.HCM chiếu bộ phim Hàn Mặc Tử, Thanh Niên xin giới thiệu loạt bài tư liệu về nhà thơ này.
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh vào giờ thìn ngày 22/9/1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Lúc còn nhỏ, chàng đã được người anh đầu là một người rất giỏi thơ Đường luật động viên, hướng dẫn làm thơ, nhờ thế chàng có thể sáng tác thành thạo thơ Đường từ rất sớm. Chính những bài thơ này đã dẫn dắt chàng gặp gỡ nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu. Và cuộc gặp gỡ định mệnh đó đã làm thay đổi cả cuộc đời chàng về sau.
Ấy là vào năm 1925, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt ở Trung Quốc và đưa về Việt Nam xét xử. Nhưng dưới áp lực đấu tranh đòi ân xá của các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như dư luận quốc tế, chúng phải đưa nhà yêu nước về giam lỏng ở Huế. Từ đó Phan Bội Châu trở thành Ông già Bến Ngự, sớm tối lấy văn thơ làm vui. Để giao lưu tâm tình với bạn hữu và những người đồng chí hướng, Phan Bội Châu mở ra Mộng Du thi xã, kêu gọi mọi người gửi thơ văn đến xướng họa. Lời kêu gọi của nhà yêu nước được hưởng ứng sôi nổi. Thơ từ các nơi gửi về cho Mộng Du thi xã rất nhiều. Và trong số các bài thơ gửi đến, Phan Bội Châu đặc biệt tâm đắc với ba bài thơ của Hàn Mặc Tử. Chàng đã gửi đến ba bài thơ Đường luật có tên là Thức khuya, Chùa hoang và Gái ở chùa. Đó là vào khoảng năm 1931.
Những bài thơ của chàng đã xoáy đúng tâm trạng nhà yêu nước. Phan Bội Châu đã họa lại ba bài thơ độc đáo này và cho đăng tất cả trên Báo Tràng An, một tờ báo có nhiều bạn đọc xuất bản ở Huế với lời đề dẫn: "Từ khi về nước đến nay, được nghe nhiều về văn thơ quốc âm, song chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ".
Việc xướng họa thơ văn với nhà yêu nước Phan Bội Châu đã làm cho Hàn Mặc Tử, khi đó lấy bút hiệu Phong Trần, nổi tiếng ngay lập tức. Làng văn xôn xao trước sự xuất hiện đầy ấn tượng của một thi sĩ mới. Đặc biệt hơn nữa, tác giả còn được Phan Bội Châu tôn xưng là tiên sinh. Tiếp sau đó, Hàn Mặc Tử ra Huế để tìm thăm Phan Bội Châu. Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm, vì thực dân Pháp sẽ chú ý đến tất cả những ai có mối quan hệ mật thiết với nhà yêu nước này. Sau cuộc gặp gỡ, Hàn Mặc Tử thường xuyên liên hệ thư từ với Phan Bội Châu, chàng còn gửi thơ của những người bạn khác ra cho ông. Mật thám Pháp sau một thời gian theo dõi, cuối cùng đã quyết định gạt tên chàng ra khỏi danh sách những người được bảo trợ sang Pháp du học. Tiếp đó, Sogny, Chánh sở mật thám Huế gửi công văn vào Quy Nhơn yêu cầu điều tra về chàng. Chánh sở mật thám Quy Nhơn là Véran gọi chàng lên tra hỏi nhiều lần làm cho gia đình hết sức lo lắng. Người anh đầu của chàng phải gửi thư ra Huế nhờ Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, một người quen thân với gia đình chàng xưa nay, can thiệp với chính quyền thì chuyện mới êm.
Không được đi du học, cuộc đời Hàn Mặc Tử rẽ sang một ngả khác. Từ đây, chàng bắt đầu bước chân vào con đường viết báo. Thời gian này, tình hình kinh tế nói chung rất khó khăn. Nạn thất nghiệp tràn lan. Chàng làm thêm công việc biên chép các tờ trích lục cũ cho Sở Đạc điền Quy Nhơn. Nhưng công việc này chỉ đem đến cho chàng một khoản tiền đủ để mua báo, giấy viết và tem thư gửi bài. Rồi xảy ra cơn bão lớn năm 1934 làm sập căn nhà của chàng đang ở. Nợ nần ập đến. Hàn Mặc Tử quyết định rời Quy Nhơn, vào Sài Gòn lập nghiệp bằng con đường làm báo chuyên nghiệp.
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ - Kỳ 2: Nhà báo được nhiều chính khách.
Tháng 7 năm 1934, từ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử khăn gói lên đường vào Sài Gòn để làm báo theo lời thúc giục, rủ rê của mấy người bạn thân. Sau một thời gian lang thang chờ việc ở Sài Gòn, chàng được mời phụ trách trang văn chương cho tờ báo Trong khuê phòng...
Chàng vừa sáng tác, vừa biên tập bài vở, lại kiêm luôn việc sửa bản in, vì thế thu nhập cũng khá. Nhưng chàng luôn cảm thấy áy náy vì tờ báo mang tên Trong khuê phòng mà nói chuyện văn chương thì có vẻ không ổn. Tuy thế, do chủ báo đối xử quá tử tế nên chàng cũng lấy làm vui. Nhưng có một lần, những người bạn của chàng viết bài gây sự với ai đó, bị công kích lại. Trên một tờ báo ở Sài Gòn, trong mục "Câu chuyện tầm phào" có bài viết mỉa mai "những trang nam tử lập nghiệp trong phòng the", ý nói nhóm làm báo Trong khuê phòng sống nhờ vào việc khai thác "thông tin khuê phòng", với nhiều câu mỉa mai rất dung tục khiến chàng bị sốc, không đến tòa soạn nữa. Chủ bút phải cử người tới nhà trọ của chàng lấy bài và an ủi mãi chàng mới trở lại làm việc.
Ở Sài Gòn ít lâu chàng đã trở nên nổi tiếng. Nhiều chính khách kính nể và đến làm quen khi biết chàng từng có mối liên hệ với Phan Bội Châu và bị mật thám Pháp theo dõi. Từ đó chàng quan tâm hơn đến những thông tin chính trị. Chàng định làm một nhà cách mạng chăng? Từ những xướng họa với nhà yêu nước Phan Bội Châu, bỏ qua cả cơ hội quan trọng là sang Pháp du học đến chỗ giao du với các nhân vật chính trị không đơn thuần là những việc làm ngẫu hứng của một chàng thanh niên trẻ tuổi. Nhà báo De Lachevrotière, một nghị viên Pháp lai da màu rất thích tìm chàng để nói chuyện. Qua De Lachevrotière, chàng quen nhiều nhóm chính trị khác nhau. Một số nhóm còn bày tỏ thái độ chống Pháp. Tuy nhiên, lâu dần chàng cảm thấy chán nản khi nhận ra những nhóm chính trị này dù hô hào cách mạng nhưng họ chỉ là những con bài của Pháp mà thôi. Đầu năm 1935, chàng về Huế, trong một đêm buồn lang thang trên bến sông Hương, chàng đã làm bài thơ Đêm khuya tự tình với sông Hương để tặng Phan Bội Châu với nhiều tâm sự ray rứt: "Bây giờ chỉ có đôi ta/Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi/Thuở nước non đến hồi non nước/Sông Hương đành xuôi ngược đông tây/Soi lòng chỉ có đám mây/Đám mây phú quý những ngày lao đao/Sao mặt sông xanh xao ra dáng/Sao tình sông lai láng khôn ngăn". Bài thơ được đăng trên báo Công Luận số ra ngày 2/3/1935. Nhiều câu chữ bộc lộ rất rõ ý hướng của chàng: "Mặc ai khanh tướng công hầu/Không thèm chung đỉnh, lưng bầu gió trăng/Sao trời đất đãi đằng ra thế/Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm", "Nhà ai khiêu vũ năm canh/Hơi men sực nức dưới thành đô xưa/Sao tức tối trôi bừa đi mãi/Chẳng buồn nghe cô lái thở than/Thuyền em đậu bến Hương giang/Chờ người quân tử lỡ làng tình duyên". Đêm khuya tự tình với sông Hương mang hơi hướng Trên dòng Hương giang của Tố Hữu. "Ô hay! Sóng chảy dạt dào/Chiếc thuyền vô định lạc vào bến mê". Hơi thơ tuy ủy mị hơn nhưng tình thơ cũng là thế. Hàn Mặc Tử nhìn thế sự bằng con mắt của một người muốn làm một cái gì để vỡ tung sự đè nén. Ngoài việc phụ trách trang văn chương cho tờ Trong khuê phòng, Hàn Mặc Tử còn viết cho khá nhiều báo nên kiếm được nhiều tiền nhuận bút. Ngoài báo tiếng Việt, chàng còn viết cho một số báo tiếng Pháp như Impartial, Opinion, La Lutte... Tuy nhiên chàng vẫn luôn thiếu trước hụt sau. Lãnh nhuận bút được bao nhiêu cũng bị bạn "mượn đỡ" mà không bao giờ có chuyện trả lại. Thậm chí quần áo cũng để cho bạn bè dùng chung. Mỗi lần từ Sài Gòn về đến Quy Nhơn chàng chỉ còn chiếc va-ly trống rỗng. Người em kế của chàng tên Nguyễn Bá Tín kể, có lần vào Sài Gòn thăm anh, chẳng những anh ấy không có tiền cho về xe mà còn xin tiền của em mình để tiêu nữa.
Hàn Mặc Tử là một người sống rất vì bạn. Thời kỳ ở Quy Nhơn chưa vào Sài Gòn làm báo, ngôi nhà của chàng là nơi bạn bè tụ tập đến để chơi đùa, nói chuyện văn chương, chuyện trên trời dưới đất. Nhiều người ăn tại trong nhà chàng nhiều hơn ở nhà mình. Tuy nhiên có một điều đặc biệt, chơi hết lòng với bạn nhưng không bao giờ theo bạn chơi bời buông thả. Chàng nhất quyết không dính vào những thứ như gái, thuốc phiện. Hoàng Trọng Miên, một người bạn làm báo thân thiết với chàng tiết lộ: "Có cám dỗ anh Trí vào nếp sống buông thả nhưng tâm hồn anh trinh trắng quá, ngay cả đất Sài Gòn ăn chơi tội lỗi này cũng không cám dỗ anh sa ngã được"
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ-Kỳ 3:Thực hư quanh chuyện tình Mộng Cầm
Hàn Mặc Tử quen Mộng Cầm trong thời gian phụ trách trang văn chương cho tờ Trong Khuê Phòng. Mộng Cầm là cháu gọi Bích Khê bằng cậu, vì "lây nhiễm tinh thần thơ văn" của ông cậu trẻ tuổi nên cũng tập tành làm thơ gửi đăng báo. Hàn Mặc Tử đã nhận được một số bài thơ như thế của Mộng Cầm gửi đến và từ đó làm quen với Mộng Cầm.
Hai mươi năm sau ngày Hàn Mặc Tử mất, vào năm 1961, nhà thơ Nguyễn Vỹ, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Phổ Thông có tòa soạn tại Sài Gòn đã cử ông Châu Mộng Kỳ tìm gặp Mộng Cầm để thực hiện bài phỏng vấn về mối tình Hàn Mặc Tử - Mộng Cầm. Nhờ mối quan hệ đặc biệt, ông Châu Mộng Kỳ là thầy dạy con riêng của chồng Mộng Cầm, nên bài phỏng vấn mới thực hiện được. Trước đó nhiều nhà báo đã bị từ chối. Trong bài trả lời phỏng vấn nói trên đăng ở tạp chí Phổ Thông số 63, ra ngày 15 tháng 8 năm 1961, Mộng Cầm đã phủ nhận hoàn toàn chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử: "Một dịp thứ bảy đi chơi lầu Ông Hoàng, anh thổ lộ mối tình với tôi. Tôi có trả lời anh: Chắc là không thể đi đến chỗ trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng. Anh hỏi lý do. Tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau, nhưng thật ra vì biết Hàn Mặc Tử mang chứng bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được, ý tôi muốn một người chồng mạnh khỏe, tráng kiện... Tuy vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật một hai năm như thế. Trong thời gian này, có nhiều lần, Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng Ngãi thăm nhà và trong nhiều bức thư anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả lời, nhưng luôn luôn ngụy biện để từ chối: Em thiết nghĩ chúng ta sống như thế này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt buộc em phải nghe lời thân mẫu em".
Bài phỏng vấn này đăng lên, Nguyễn Vỹ cho biết Mộng Cầm đã đọc và không có điều chi thắc mắc và ông kết luận "đã giải đáp dứt khoát một nghi vấn thường bị nhiều người xuyên tạc". Tuy nhiên với độc giả, bài trả lời phỏng vấn của Mộng Cầm đã gây sốc. Bởi mối tình Mộng Cầm - Hàn Mặc Tử đã được người đời nâng lên thành huyền thoại. Ngay cả Ngọc Sương, dì ruột của Mộng Cầm cũng phản đối. Rồi đến Quách Tấn, người đã ủng hộ việc Mộng Cầm đi lấy chồng khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh nan y cũng giận dữ trước lời phát biểu này. Quách Tấn viết: "Cuộc tình duyên giữa Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm, tôi biết rõ lắm. Nhưng tôi chỉ nói những gì có thể nói được, nói những gì có thể giúp cho bạn đọc hiểu thêm tâm hồn Tử, văn chương Tử mà thôi". Quách Tấn là người đã từng bênh vực việc Mộng Cầm đi lấy chồng làm cho nhà thơ Bích Khê giận ông mấy ngày. Nhưng ông vô cùng tức giận khi Mộng Cầm phủ nhận mối tình với Hàn Mặc Tử. Mộng Cầm đã nói thật hay nói dối ? Vì sao nàng lại phủ nhận mối tình này ? Thật ra, trong thời gian quen biết với Mộng Cầm, căn bệnh phong của chàng chưa bộc phát. Ngay cả chàng cũng không hề "cảm thấy", làm sao Mộng Cầm có thể "nhận ra". Rất dễ thấy rằng đó là những lời nói dối của một người con gái muốn quên quá khứ để bảo vệ hạnh phúc hiện tại. Một lý do rất thường tình và đáng thông cảm. Mối tình Hàn Mặc Tử - Mộng Cầm đã được rất nhiều người gần gũi xác nhận. Trần Thanh Mại, một người bạn của chàng đã công bố những chi tiết của mối tình này trong cuốn sách Hàn Mặc Tử xuất bản năm 1942. "Ấy là câu chuyện một đôi trai tài gái sắc yêu nhau, câu chuyện muôn đời ấy mà! Người con trai là Hàn Mặc Tử, người con gái, ta cứ theo nhà thi sĩ mà gọi là Mộng Cầm đi, mặc cái tên thực của họ. Hai bên đã thề nguyền cùng nhau những lời mà ta hiểu là thiết tha đằm thắm lắm. Thường thường thì họ hay gặp nhau ở hai tỉnh: Qui Nhơn và Phan Thiết. Họ đưa nhau đi chơi bờ bể, họ đi viếng các danh lam thắng cảnh, nhất là lầu Ông Hoàng. Rồi họ xa nhau. Họ nhớ nhau, và tặng ảnh cho nhau. Họ coi như một cặp vợ chồng chưa cưới".
Hàn Mặc Tử đã sáng tác nhiều bài thơ đầy nước mắt về mối tình này. Trong bài Muôn năm sầu thảm, chàng đã kêu tên nàng lên một cách thảm thiết: "Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm / Nhớ thương còn một nắm xương thôi". Bài Phan Thiết Phan Thiết, chàng nhắc tới những kỷ niệm xưa về lầu Ông Hoàng, nơi chàng và Mộng Cầm từng dạo chơi thuở nào: "Ta lang thang tìm tới chốn lầu Trăng/Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang/Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết/Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!/Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi".
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ - Kỳ 4: Hoàng Cúc - nàng thơ bí ẩn
Hoàng Cúc là người liên quan đến bài thơ tình đẹp nhất trong kho tàng thơ ca Việt Nam: Bài thơ thôn Vỹ. Nàng tên thật là Hoàng Thị Kim Cúc, sinh ngày 5/12/1913, kém Hàn Mặc Tử 1 tuổi.
Cũng như Hàn Mặc Tử, nàng phải theo gia đình vào Quy Nhơn sinh sống vì cha nàng là công chức, làm việc tại Quy Nhơn. Năm 1933, Tử vào làm cho Sở Đạc điền Quy Nhơn và quen Hoàng Tùng Ngâm - em thúc bá của Hoàng Cúc. Hoàng Tùng Ngâm sống trong ngôi nhà nhỏ cạnh nhà Hoàng Cúc, anh em bè bạn thường tụ tập để chơi đùa, bình phẩm văn thơ. Hoàng Cúc khi đó cũng đang tập tành viết báo làm thơ với bút hiệu Hoàng Hoa nữ sĩ nên cũng quen biết Hàn Mặc Tử. Với bản tính đa tình, Hàn Mặc Tử đã đem lòng si mê Hoàng Cúc. Chàng đã làm một số bài thơ tặng nàng như bài Vịnh hoa cúc, Trồng hoa cúc... Một số bài đã đến tay Hoàng Cúc qua Hoàng Tùng Ngâm. Hoàng Cúc biết rất rõ tình cảm của chàng. Rồi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo. Sau một thời gian, chàng về lại Quy Nhơn. Lúc này gia đình chàng đã dời đến cách nhà Hoàng Cúc chỉ vài căn. Tình xưa dậy sóng trở lại. Giờ đây, chàng đã ít nhiều bạo dạn hơn trước. Hàn Mặc Tử sáng tác bài Hồn cúc: "Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường/Không dám sờ tay sợ lấm hương/Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá/Muốn ôm hồn cúc ở trong sương". Năm 1936, Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh sống. Sau đó, nàng bắt đầu ăn chay trường, trở thành cư sĩ, sống cuộc đời lặng lẽ bí ẩn. Cũng trong năm đó, Hàn Mặc Tử in tập thơ Gái quê, là tập thơ mới đầu tiên kể từ khi chàng bỏ làm thơ Đường luật. Chàng mang theo một số tập Gái quê ra Huế. Và chàng đã gặp lại Hoàng Cúc trong một dịp hội chợ nhưng không dám tặng thơ cho nàng. Chàng cũng tìm đến Vỹ Dạ - nơi ở của Hoàng Cúc - nhưng chỉ đứng ngoài cổng một lúc rồi bỏ đi. Nhiều năm sau đó, giữa hai người không có liên lạc gì với nhau. Một hôm Hoàng Cúc nghe tin chàng bị bệnh phong, nàng liền gửi thư cho chàng. Và chàng đã cảm động sáng tác bài Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng nàng.
Chuyện tình Hoàng Cúc - Hàn Mặc Tử cũng có những điều gây tranh cãi như trường hợp Mộng Cầm. Bởi Hoàng Cúc đã có lần công khai phủ nhận chuyện nàng có tình cảm với Hàn Mặc Tử. Đó là vào năm 1969, nhà thơ Quách Tấn, người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử đã viết một hồi ký lấy tên là Đôi nét về Hàn Mặc Tử đăng trên tạp chí Văn, trong đó có phần nói đến mối quan hệ giữa Hoàng Cúc và Hàn Mặc Tử. Quách Tấn cho rằng hai người không thành duyên nợ là do thân sinh của Hoàng Cúc chê Hàn Mặc Tử không xứng. Hoàng Cúc đã đọc được hồi ký này và ngày 15/3/1971, nàng gửi thư cho Quách Tấn để "nói lại cho rõ". Hoàng Cúc đã phản bác một số chi tiết nhỏ mà Quách Tấn nêu ra và cuối cùng nói về mối quan hệ của mình với Hàn Mặc Tử: "Hồi ấy tuy Tử ở gần nhà tôi, song Tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi. Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như con gái, còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử cũng đã tìm cách để gặp, nhưng vẫn chưa toại nguyện..." Thế nhưng Quách Tấn kiên quyết bảo vệ lập trường của mình trong các chi tiết thể hiện việc Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc có yêu nhau: "Còn về những chi tiết trong cuộc tình duyên của Tử - Cúc, thì nhất định ký ức tôi không phản tôi, vì không có gì phức tạp khó nhớ. Việc Tử nhờ người đến dạm là việc có thật. Người ấy là nhà thầu khoán Bùi Xuân Lang ở Quy Nhơn, vừa thân với Tử, vừa quen với cụ Hoàng Phùng".
Hiểu như thế nào về chuyện này? Theo chúng tôi, Hoàng Cúc ngày ấy là một thiếu nữ trẻ trung yêu đời, lại ít nhiều có tâm hồn văn chương thì việc đáp lại những tình cảm của một người như Hàn Mặc Tử là có thể xảy ra. Nhưng sau này cũng như Mộng Cầm, nàng đã cố gắng chôn chặt những điều thầm kín riêng tư vào cõi lòng. Là một người xa lánh cuộc đời để tìm đến cõi thiền, thì những chuyện tình cảm dù có cũng không thể phơi bày cho công chúng biết. Cho nên việc Hoàng Cúc phủ nhận chuyện có đáp lại tình cảm với Hàn Mặc Tử là điều dễ hiểu. Nguyễn Bá Tín cho biết tại nhà riêng của Hoàng Cúc, khi đã quy y, nàng vẫn "dành riêng một căn phòng ngày đêm hương hoa tụng niệm, tưởng nhớ mối tình bất diệt của anh mà cũng là tình đầu của chị".
Mối tình Hàn Mặc Tử - Hoàng Cúc như là khói sương bảng lảng. Nàng thực sự là một nàng thơ hơn là một người tình để chàng có thêm thi hứng mà thôi.
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ-Kỳ 5: Đây thôn Vỹ Dạ-bài thơ nhiều
Năm 1936, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn. Lúc này thân phụ Hoàng Cúc về hưu nên gia đình phải dọn về Huế. Cũng trong năm đó, chàng bắt đầu phát hiện những dấu hiệu của căn bệnh phong, nhưng chàng vẫn chưa quan tâm đến nó. Một thời gian rất lâu, căn bệnh mới phát mạnh.
Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc. Chi tiết trên là theo Nguyễn Bá Tín. Còn theo nhiều tác giả khác thì Hoàng Cúc không gửi ảnh mình mà gửi một tấm bưu ảnh có mây nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có khóm tre, có cả ánh trăng hoặc là ánh nắng chiếu xuống. Một thời gian sau, nàng nhận được thư của Hàn Mặc Tử. Kèm theo bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng, Hàn Mặc Tử viết: "Túc hạ! Có nhận được bức ảnh bến Vỹ Dạ lúc hừng đông hay là một đêm trăng? Và mấy hàng chữ của túc hạ gửi thăm, muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là phúc phận lắm rồi. Mong ơn trên xuống độ cho túc hạ thật đầy và mong rằng một mùa xuân nào đấy sẽ gặp lại được túc hạ cho phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an vui vẻ". Đây thôn Vỹ Dạ là bài thơ nhẹ nhàng nhất của Hàn Mặc Tử trong tập thơ Điên. Bởi lúc này chàng đang trong thời kỳ bệnh tật, đau đớn điên cuồng cả thể xác lẫn tâm hồn. Thơ của chàng luôn luôn là những gào thét uất hận, nghẹn ngào. Bài thơ này, Nguyễn Bá Tín cho biết nguyên cái tựa ban đầu của nó là Ở đây thôn Vỹ Dạ. Nhưng về sau đã được biên tập lại, bỏ đi chữ Ở. Trong bài thơ, hình ảnh hàng cau được nhiều người khen ngợi, nhưng lại đem đến thắc mắc cho chính người được tặng thơ là Hoàng Cúc. Nàng đã không hiểu vì sao Hàn Mặc Tử lại viết câu thơ "Sao anh không về chơi thôn Vỹ/Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên". Thôn Vỹ Dạ, nằm bên kia Đập Đá, cư dân ở đây phần lớn thuộc tầng lớp thượng lưu. Kế thôn Vỹ Dạ là thôn Nam Phổ, một thôn bình dân, sống bằng nghề trồng cau. "Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh". Cau Nam Phổ nổi tiếng khắp cả nước. Hằng năm đến mùa cau, già trẻ gái trai trong làng đều có thể trèo cau, hái cau để bán. Các cô gái Nam Phổ nổi tiếng trèo cau giỏi. Vì thế có câu "Con gái Nam Phổ ở lổ trèo cau". Những cô gái khuê các vùng Vỹ Dạ rất sợ bị xếp vào diện câu ví đó. Và vì thế ít ai chịu trồng cau ở Vỹ Dạ. Như vậy, thì vì sao Hàn Mặc Tử lại lấy hình ảnh cây cau như là một biểu tượng cho thôn Vỹ Dạ?
Bài thơ cũng tạo ra rất nhiều sự khó hiểu đối với độc giả trong các chi tiết khác. Chẳng hạn mấy câu thơ "Mơ khách đường xa, khách đường xa. Áo em trắng quá nhìn không ra" và "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Ai biết tình ai có đậm đà?". Có nhiều ý kiến lý giải khác nhau, trong đó thậm chí có người cho rằng khổ thơ này chỉ những nàng kỹ nữ sông Hương như trên báo Giáo Viên Nhân Dân số tháng 1/1990. Theo ý kiến một số người, hình ảnh "áo trắng nhìn không ra" là do Hoàng Cúc mặc chiếc áo dài màu trắng mà tấm hình cũ quá nên Hàn Mặc Tử không thấy rõ. Còn "sương khói mờ nhân ảnh" thì Nguyễn Bá Tín cho rằng có thể là Hàn Mặc Tử muốn nói đến đời sống khói nhang cõi thiền của Hoàng Cúc. Ngày tháng ra đời của bài thơ cũng gây bàn cãi. Trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật số ra ngày 7/1/1990, tác giả Đào Quốc Toàn viết: "Bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ chỉ có thể được viết trong khoảng 1936-1937 chứ không thể viết vào năm 1939 được, bởi vì bài thơ này được Hàn Mặc Tử tập hợp lại ở tập Đau thương trong thời gian cuối 1937 đầu 1938. Tập thơ này gồm khoảng 50 bài thơ, lúc đầu lấy tên là Thơ điên".
Đây cũng là vấn đề khó làm sáng tỏ. Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ này trong thời điểm nào? Nếu căn cứ vào trí nhớ của Hoàng Cúc thì bài thơ ra đời vào năm 1939. Trong thư gửi cho Quách Tấn vào ngày 15/10/1971, Hoàng Cúc viết: “Vào khoảng hè 1939, Ngâm viết thư về Huế cho biết Tử mắc bệnh nan y, và khuyên tôi nên viết thư thăm Tử, để an ủi một tâm hồn đã vô cùng đau khổ. Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte-visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử mà không ký tên, rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ...".
Hàn Mặc Tử-nhà thơ có số phận kỳ lạ-Kỳ 6:Mai Đình-tình thơ hay...
Mai Đình thực ra không phải là một nàng thơ, cũng không phải là một người tình của Hàn Mặc Tử...Đúng nghĩa, nàng là một người bạn văn chương của chàng. Nàng gặp Hàn Mặc Tử khi chàng đã lâm trọng bệnh, xa lánh tất cả mọi người để về ẩn mình trong một cái chòi tranh ở Gò Bồi, cách thành Quy Nhơn khoảng 15 cây số.
Mai Đình xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng mang trong mình dòng máu lãng mạn, nàng theo tiếng gọi bốn phương cất bước ra đi. Nhờ có nghề dạy nữ công gia chánh cho những gia đình giàu có nên Mai Đình kiếm kế sinh nhai khá dễ dàng. Nàng đã đặt chân đến nhiều vùng đất xa xôi, có khi qua tận Nam Vang. Năm 1937, Mai Đình đến Quy Nhơn. Trước đó nàng đã nghe danh Hàn Mặc Tử từ lâu. Là một người có cá tính mạnh mẽ, nàng không câu nệ, tìm cách giáp mặt chàng. Lần đầu tiên, Hàn Mặc Tử vì tự ti bệnh tật nên không chịu tiếp. Nàng bèn vào Nha Trang, thông qua Quách Tấn để "tiếp cận" chàng. Trong hồi ký của mình, Quách Tấn nhớ lại: "Gặp tôi, nàng không chút e lệ, ngồi nói chuyện như người quen biết đã lâu. Phê bình bài thơ Gái quê xong, nàng tỏ thật nỗi lòng đối với Tử: “Biết Tử mang bệnh ngặt nghèo, lòng tôi hết sức thương cảm. Tôi mong sao chia sớt được nỗi đau khổ của Tử một đôi phần”. Rồi nàng trách Mộng Cầm sao đành lòng bỏ Tử". Nàng gửi cho Quách Tấn bài thơ Biết anh để tặng Hàn Mặc Tử với những câu thơ thật mạnh dạn: "Còn anh em đã gặp anh đâu!/Chỉ cảm vần thơ có những câu/Âu yếm say sưa đầy cả mộng/Xui lòng tư tưởng lúc đêm thâu". Đây là bài thơ đầu tiên mở ra một tình bạn văn chương thú vị giữa hai người. Hàn Mặc Tử nhận được thơ, liền hồi âm nhưng Mai Đình đã đi khỏi Nha Trang. Chàng buồn rầu sáng tác bài Lưu luyến: "Chửa gặp nhau mà đã biệt ly/Hồn anh theo dõi bóng em đi/Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió/Lưu luyến bên em chẳng nói gì".
Điều đặc biệt nhất trong mối quan hệ Mai Đình - Hàn Mặc Tử là nàng đã hành xử rất đúng với tinh thần văn chương: Tứ hải giai huynh đệ. Theo tài liệu của Trần Thanh Mại thì mùa hè năm 1938, Mai Đình từ biệt Quy Nhơn để vào Sài Gòn thu xếp công việc. Khi trở ra, Mai Đình đưa Hàn Mặc Tử một món tiền để lo thuốc thang và nói ý định của mình: sẽ ở lại trong cái chòi tranh cùng với chàng. Hàn Mặc Tử từ chối nhưng nàng mặc kệ, cứ ở đấy đi chợ nấu ăn, sắc thuốc cho chàng. Mai Đình không hề ngần ngại bệnh tật cũng như dư luận người đời.
Hàn Mặc Tử từ chỗ không muốn gặp mặt đến xúc động trước việc làm của Mai Đình nên đã có nhiều câu thơ tặng nàng: "Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn/Đêm muộn xuống gieo vào muôn sóng mắt/Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt/Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!". Ngoài lo việc cơm nước thuốc thang cho chàng, thời gian còn lại nàng cùng chàng ngâm thơ vịnh cảnh. Hai tâm hồn thi sĩ sống bềnh bồng với những vần thơ như thế suốt một thời gian dài. Nhưng số tiền Mai Đình mang theo cũng đã hết. Nàng khuyên chàng vào Bệnh viện phong Quy Hòa để điều trị, nàng sẽ đi theo và ở luôn trong ấy để chăm sóc cho chàng. Nhưng Hàn Mặc Tử từ chối. Cuối cùng hai người phải từ giã nhau. Nàng lại cất bước giang hồ bốn phương. Lâu lâu, chàng lại nhận được cánh thư của nàng từ phương trời xa nào đó.
Trong một lần ngồi buồn, chàng đem những từ ngữ trong bức thư nàng gửi xếp lại thành bài thơ. Đó là bài Thao thức với những câu thơ da diết: "Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy/Cho nên muôn dặm ở ngoài kia/Em đang mong mỏi, em đang nhớ/Bứt rứt lòng em muốn trở về".
Mối tình thơ kỳ lạ giữa Mai Đình và Hàn Mặc Tử cùng với việc Mai Đình chăm sóc cho Hàn Mặc Tử được Trần Thanh Mại công bố vào năm 1942, một năm sau ngày Hàn Mặc Tử mãi mãi ra đi. Nhưng câu chuyện trên đây không được gia đình Hàn Mặc Tử thừa nhận và Quách Tấn thì cho rằng Trần Thanh Mại đã hoàn toàn bịa đặt. Tuy nhiên, những tài liệu của Trần Thanh Mại công bố đã thuyết phục được không ít người. Có người cho rằng, trước đây giữa nhà thơ Quách Tấn và nhà phê bình Trần Thanh Mại xảy ra vụ kiện bản quyền thơ Hàn Mặc Tử, liên quan trực tiếp đến cuốn sách Hàn Mặc Tử mà Trần Thanh Mại xuất bản năm 1942, xuất phát từ mâu thuẫn này mà nhà thơ Quách Tấn đã nói như vậy chăng?
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ: Kỳ 7: Hình bóng giai nhân...
Ai cũng biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong. Nhưng ngoài căn bệnh mà người ta cho rằng đã ảnh hưởng đến thơ của Tử, bật ra thành những lời gào thét uất hận, thì trong thơ Tử còn có những hình ảnh thật kỳ dị khó hiểu có thể liên quan đến một nguyên nhân khác. Chính người em ruột của Tử đã đặt vấn đề về một căn bệnh tâm thần mà Tử mắc phải. Có thể như thế được chăng?
Trong thơ Tử có những hình ảnh thật kỳ dị, đôi lúc ma quái rùng rợn. Đến nỗi Hoài Thanh đã phải công nhận là: "Chính như lời Hàn Mặc Tử nói trong bài Thơ điên, vườn thơ của người rộng thinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh". Quả đúng như thế. Đọc thơ của chàng đôi lúc thấy sởn da gà: "Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ/Tiếng rú ban đêm rạng bóng mờ!/Tiếng rú lòng tôi xô vỡ sóng/Rung tầng không khí, bạt vi lô/Ai đi lẳng lặng trên làn nước/Với lại ai ngồi khít cạnh tôi?/Mà sao ngậm cứng Thơ đầy miệng/Không nói không rằng nín cả hơi", "Lụa trời ai dệt với ai căng?/Ai thả chim bay đến Quảng Hằng?/Và ai gánh máu đi trên tuyết/Mảnh áo da cừu ngắm nở nang", "Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/Cho trăng ngập, trăng dồn lên tới ngực/Cho hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức/Rồi bay lên cho tới một hành tinh/Cùng ngả nghiêng lăn lộn với muôn hình/Để gào thét một hơi cho rởn ốc".
Quách Tấn đã nghe Hàn Mặc Tử kể lại những câu chuyện liên quan đến các hình ảnh người gánh máu đi trên tuyết và người ngồi khít cạnh tôi như sau: "Đêm ấy - theo lời Tử kể - vì tiết sắp sang đông nên bãi biển không một bóng người qua lại, mặc dù trời không lạnh và trăng sáng như ban ngày. Đêm tạnh hết sức, tạnh đến nỗi nghe cả tiếng chiêm bao! Cảnh trời thật mênh mông bát ngát. Lòng tôi lại mênh mông bát ngát bằng hai... Thân tôi chìm trong không gian vô tận và hồn tôi chìm trong cõi lòng rộng vô biên. Tôi có một cảm giác ngờm ngợp... Chợt nhìn lên trời thấy bóng trăng đã đứng đầu, và nhìn bên cạnh thấy một bóng người ngồi sát. Liền đó từ trong bóng người ngồi cạnh tôi, bước ra một bóng người thứ hai, đi từ từ ra biển và bước lững thững trên mặt nước... Rồi hai bóng đều biến mất và mặt biển đông lại thành tuyết sáng ngời dưới bóng trăng khuya. Thoạt hiện ra một người, thân vóc nở nang, mình khoác chiếc áo lông, vai khoác hai thùng thiếc đựng đầy nước óng ánh. Người ấy bước đi thì nước trong thùng tung ra và hóa thành huyết đổ lã chã trên tuyết. Người gánh máu đi lần vào bờ... Tôi khiếp quá hét lên thành tiếng, vụt đứng dậy, chạy một mạch về nhà. Vừa đến nhà, mệt quá, té nằm trước thềm, ngút hơi... Từ ấy cảnh tượng kia ám ảnh tôi mãi...". Quách Tấn viết tiếp: "Tử lại nói: Cảnh tượng người gánh máu đi trên tuyết khi trông thấy thì rùng rợn hơn cảnh tượng người ngồi bên cạnh tôi. Song về sau mỗi lần nghĩ lại, cảnh tượng người ngồi bên cạnh lại gây một cảm giác rùng rợn hơn".
Đó là những trạng thái "xuất thần" mà hàng mấy chục năm, tất cả những người nghiên cứu về thơ Hàn Mặc Tử không ai lý giải được nguyên nhân, kể cả Quách Tấn. Người ta chỉ cho rằng nó bật ra từ sự đau khổ nung nấu mà Tử phải gánh chịu mà thôi. Người em kế của Tử, sau nhiều năm lặng lẽ chiêm nghiệm, đã công bố một kết luận vào năm 1991: "Trong quá trình chung sống bên anh, tôi ghi nhận anh có hiện tượng suy nhược tâm thần, bệnh đó đã được nhiều người bạn tôi, chuyên khoa tâm lý sau này xác nhận là hiện tượng "névrose", một chứng rối loạn thần kinh nào đó, mà con người vẫn còn sáng suốt và rung cảm bén nhạy, vẫn làm chủ được trí óc mình".
Nguyễn Bá Tín cho biết, có một tai nạn đã xảy ra đối với Tử vào lúc nhỏ, có thể ảnh hưởng đến tâm thần chàng về sau. Đó là lúc chàng khoảng 17-18 tuổi, suýt bị chết đuối ở biển Quy Nhơn. Sau khi thoát chết, Tử trở nên hoảng loạn khác thường. Từ đó chàng bỏ luôn thói quen tắm biển, sợ nước, ít hoạt động, hình thể gầy nhỏ đi. Nhiều biểu hiện làm cho gia đình sợ rằng Tử bị tâm thần, nhưng sau đó thấy chàng bình thường, thậm chí còn tập làm thơ nên cũng quên đi nỗi lo lắng. Tuy nhiên với Tử thì khác. Chàng quả quyết rằng trong cơn nguy biến đó, chàng đã được tận mắt thấy Đức Mẹ hiện ra. Đó là giây phút mà chàng run sợ đến ớn lạnh toàn thân. Sau này Tử đã sáng tác bài Ave Maria: "Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy/Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế/Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ/Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ". Chi tiết này càng củng cố cho nhận định của Nguyễn Bá Tín là đúng.
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ - Kỳ 9: “Trường thơ loạn”
Những vần thơ Chế làm ra đã khiến Tử kinh ngạc. Đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác: những bài thơ điên loạn.
Quy Nhơn - Bình Định là vùng đất thiêng. Năm trăm năm trước, vùng đất này là chiến trường đẫm máu. Một vương triều sụp đổ, bao nhiêu chiến binh tử trận. Thành Đồ Bàn ngày nào còn lại một dãy gò sỏi mênh mông với những tháp Chàm đổ nát. Từ xưa, nhiều thi sĩ khi qua đây đã cảm xúc bật ra những vần thơ thống thiết. Vào những năm 1930 - 1945, Quy Nhơn - Bình Định bỗng trở thành vùng đất cực thịnh của văn chương nghệ thuật. Thật kỳ lạ, nơi đây tập trung toàn những thi sĩ tầm cỡ. Thuở ấy, có cậu học trò nhút nhát thích làm thơ tên là Phan Ngọc Hoan. Đắm mình trong không gian huyền hoặc của cõi Đồ Bàn, Hoan đã đặt cho mình cái tên Chế Lan Viên rồi khóc than người đã khuất bằng tập thơ Điêu tàn với những câu thơ thật lạ lùng: "Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận/Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang/Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận/Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn".
Năm 1936, từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã gặp Chế Lan Viên. Chế tìm đến Tử như tìm đến một ông thầy dạy làm thơ. Thế nhưng những vần thơ của Chế đã khiến Tử kinh ngạc: "Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước/Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn/Hơi người chết tỏa đầy trong gió lướt/Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ xanh non/Trên một nấm mồ tàn ta nhặt được/Khớp xương ma trắng tựa não cân người/Tủy đã cạn nhưng vẫn đầm hơi ướt/Máu tuy khô còn đượm khí tanh hôi". Trước đó, Hàn Mặc Tử đã nghiên cứu rất kỹ về trường phái thơ tượng trưng của Pháp. Chàng mong muốn tạo ra một trường phái thơ cho riêng mình. Giờ đây Chế đã làm lóe lên trong đầu Tử cái mà lâu nay chàng đi tìm nhưng chưa thấy. Trước đó, khi Yến Lan hoàn thành bản thảo tập Giếng loạn, Tử đã mơ hồ nghĩ đến một thứ thơ "không giống ai". Bây giờ đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác: những bài thơ điên loạn. Vì vậy ngay trong ngày Chế Lan Viên và Yến Lan đem bản in đặc biệt của tập Điêu tàn đến cho chàng xem, chàng hồ hởi công bố ngay việc thành lập “Trường thơ loạn”.
Từ đó, dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử, các thành viên trong “Trường thơ loạn” say sưa sáng tác. Có những đêm cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ dị. Thơ của các thi sĩ “Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước chân vào cái thế giới rùng rợn đó. Nếu Hàn Mặc Tử thích thú với hồn để viết "Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta/Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/Như mê man chết điếng cả làn da" thì Chế Lan Viên lại khoái... sọ người hơn: "Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại/Muốn riết mi trong sức mạnh tay ta/ Để những giọt máu đào còn đọng lại/Theo hồn ta tuôn chảy những lời thơ/Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ/Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô".
Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời “Trường thơ loạn” khiến văn thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể: "Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo: Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì, toàn nói nhảm ! Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: Thơ gì mà rắc rối thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên của Tử. Hoài Thanh kể tiếp: "Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mặc Tử khi viết đoạn này: Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống”.
Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ này đã gây sốc cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách giải quyết sự bế tắc trong tư tưởng của mình mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác khá nhiều những vần thơ kỳ dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941. Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. “Trường thơ loạn” từ đó tan rã.
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ - Kỳ 10: Căn bệnh phong và ...
Nguyên nhân khởi phát căn bệnh phong của Hàn Mặc Tử được nhiều sách báo dẫn lại như sau: Một hôm từ Sài Gòn ra Phan Thiết thăm Mộng Cầm, chàng được Mộng Cầm dẫn đi dạo chơi lầu ông Hoàng..
Đến lúc chiều tối trở về, băng qua cánh đồng thì gặp cơn mưa giông. Cả hai chạy vào trú trong một căn chòi bên đường. Mưa mỗi lúc một lớn, trời tối đen như mực. Từ trong căn chòi, hai người nhìn ra bên ngoài thấy có những quả cầu lửa màu xanh dưới đất vùn vụt bay lên. Những quả cầu lửa chớp tắt liên tục. Đồng thời lại nghe tiếng rền vang ầm ầm như ai lăn thùng sắt trên đường đá. Hai người rất hoảng sợ, ngồi ôm nhau run rẩy trong căn chòi. Một lúc trời quang mây tạnh, bước ra khỏi nơi trú mưa thì mới biết mình đang ở cạnh một ngôi mộ ai mới chôn. Trở về Sài Gòn ít hôm, Tử thấy ngứa ngáy khó chịu trong người. Một thời gian thì nổi lên những vết đỏ như đồng xu ở trên lưng, sau lan dần ra khắp người. Căn bệnh phong xuất hiện từ đó. Những thông tin này đăng tải lên kèm với lời phê phán việc Mộng Cầm bỏ Tử đi lấy chồng trong lúc Tử bị căn bệnh quái ác hành hạ khiến Mộng Cầm hết sức day dứt. Theo quan niệm dân gian trước nay, thì căn bệnh phong phát ra do người ta nhiễm phải hơi dưới ngôi mộ mới bốc lên trong lúc mưa giông. Nhiều người tin điều đó là có thật nên càng trách Mộng Cầm nhiều hơn, rằng nàng đã gián tiếp đưa chàng đến chỗ bệnh tật rồi lại vội vã bỏ ra đi. Tuy nhiên, ngay từ thời ấy, khoa học đã chứng minh căn bệnh phong do loại vi trùng có tên là Hansen gây ra. Chính khi Hàn Mặc Tử nhập bệnh viện phong Quy Hòa, bệnh viện Quy Nhơn đã làm xét nghiệm cho chàng và tìm ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng. Nhưng có một điều gây khó hiểu cho nhiều người là việc phát bệnh của Tử lại có những chi tiết trùng hợp với quan niệm dân gian nói trên. Nguyễn Bá Tín cho biết, chính Hàn Mặc Tử đã kể với bà mẹ về chuyện mắc mưa giông trong nghĩa địa: "Mẹ tôi linh cảm có chuyện chẳng lành. Bà vặn hỏi mãi thì anh kể chuyện có hôm cùng người bạn đi chơi Phan Thiết, gần tối băng qua cánh đồng, thì gặp phải cơn mưa giông dữ dội...". Ngay cả Mộng Cầm cũng thừa nhận có chuyện như vậy. Hãy đọc đoạn đối thoại giữa Châu Hải Kỳ và Mộng Cầm trên tạp chí Phổ Thông số ra ngày 15/8/1961:
"Như vậy xin lỗi bà, bà có đi lầu ông Hoàng và có gặp mưa không? - “Tôi nhận có đi chơi lầu ông Hoàng với Hàn Mặc Tử, có gặp mưa, có ngồi ở nghĩa địa, nhưng không phải vì đó mà Hàn Mặc Tử bị phong như anh Quách Tấn đã viết. Nếu Hàn Mặc Tử bị phong sao tôi không hề hấn gì cả? Hai người cùng ngồi núp mưa một chỗ kia mà!".
Song song với câu chuyện trên, có một câu chuyện hoang đường khác cũng liên quan đến căn bệnh phong, được truyền tụng trong dân gian thời ấy. Đó là sự báo thù của những người chiến bại ở thành Đồ Bàn khi xưa. Sự báo thù chỉ nhắm vào những thanh niên đẹp trai, học giỏi. Lời đồn đại này làm cho người dân thành phố Quy Nhơn thời ấy luôn sống trong hồi hộp lo âu. Lâu lâu ở thành Quy Nhơn, thấy vắng bóng một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai là mọi người hiểu anh ta vừa phát bệnh phong, phải đi trốn. Lời đồn này đã có từ xa xưa, trở thành một truyền thuyết lưu truyền qua nhiều thế hệ. Người dân Bình Định, đặc biệt là Quy Nhơn, bao giờ cũng nơm nớp lo sợ sự báo thù ghê gớm của một giống người Hời. Và thật thú vị, cũng chính những truyền thuyết này là chất men sáng tạo cho những nhà thơ điên của thành Quy Nhơn. Chế Lan Viên cùng với Yến Lan thường lang thang bên những tháp Chàm đổ nát để tưởng nhớ về những người Hời huyền thoại đó. Trong bài thơ Trên đường về, Chế Lan Viên viết: "Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn/Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi". Hàn Mặc Tử cũng đã từng viết: "Mà vì đâu những tháp Hời kiêu ngạo/Hằng muôn năm sống mãi dưới sương đêm".
Điều đáng tiếc nhất, là Hàn Mặc Tử, một người rất Tây học, nghiên cứu đủ thứ về văn minh phương Tây, từ thi ca cho đến triết học, lại không chịu tin vào Tây y. Chàng cũng bắt chước theo những người ít học khác khi biết mình bị mắc bệnh phong là tìm một nơi hoang vu vắng vẻ để lẩn trốn chính quyền, lẩn trốn người quen rồi chạy chữa bằng những thứ thuốc của các lang băm. Cho đến cuối cùng, khi đã kiệt quệ sức lực thì mới chịu vào bệnh viện. Và vì thế nên mọi chuyện đã trở nên quá muộn màng.
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ - Kỳ 11: Những câu thơ đầy ma lực
Những năm 1938 - 1939, Tử đau đớn dữ dội bởi bệnh tật, nhưng trước mặt bạn bè chàng cố kìm nén. Chàng chỉ gào thét trong thơ: "Trời hỡi! bao giờ tôi chết đi /Bao giờ tôi hết được yêu vì/Bao giờ mặt nhật tan thành máu/Và khối lòng tôi cứng tợ si", "Tôi vẫn còn đây hay ở đâu/Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu/Sao bông phượng nở trong màu huyết/Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu".
Lúc này, sau một thời gian chữa chạy bằng đông y, chẳng những căn bệnh phong cùi không thuyên giảm chút nào mà ngược lại còn làm thân thể chàng ngày một tiều tụy đi vì những tác dụng phụ của thuốc.
Mặt khác, thông tin về việc chàng bị mắc bệnh phong đã đến tai chính quyền địa phương. Do đó, chàng phải liên tục thay đổi chỗ ở để tránh sự truy đuổi gắt gao của Sở Vệ sinh công cộng thành phố Quy Nhơn. Cuối cùng, gia đình tìm thuê cho chàng được một nơi ở khá kín đáo trong khu lao động nghèo nằm bên cồn cát trắng ven biển. Đó là một túp lều tranh mà theo Hoài Thanh kể là rách nát đến độ phải lấy giấy báo và bao thư che những chỗ dột trên mái nhà. Trong thời kỳ bệnh tật, Tử sáng tác được ba tập thơ là Thơ điên, Xuân như ý và Thượng thanh khí. Nhưng có điều đặc biệt là, những câu thơ của chàng cứ tiến dần đến chỗ rối rắm khó hiểu theo tiến triển bệnh tật. Nhiều câu thơ đọc lên nghe rất hay nhưng độc giả hầu như không ai hiểu tác giả muốn nói gì. Tuy nhiên, theo lời Quách Tấn thì, điều lạ lùng là dù rối rắm khó hiểu như thế nhưng thơ Tử được người đời chuyền tay nhau đọc thuộc lòng, đọc như đọc kinh, không hiểu gì cũng đọc thuộc làu làu. Như thể thơ của chàng lúc đó có một ma lực gì. Hoài Thanh cũng xác nhận điều lạ lùng này: "Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mặc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mặc Tử đâu phải chuyện dễ. Đã khúc mắc mà lại nhiều: tất cả đến sáu, bảy tập. Họ thuộc hết và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ".
Chúng ta biết rằng, lúc Hàn Mặc Tử còn sống, chàng chỉ mới xuất bản được mỗi một tập Gái quê vào năm 1936, khi chàng còn khỏe mạnh và có tiền. Còn phần lớn thơ chàng làm ra trong thời kỳ bệnh tật này thì đến với người yêu thơ qua cách người này cho người khác mượn sổ thơ để chép tay. Thơ của Tử không chỉ làm thích thú những cô cậu học sinh trung học vốn mơ mộng mà còn lan tỏa ra nhiều giới khác. Và thật đáng ngạc nhiên, nó còn lay động đến cả giới tu hành. Có một nữ tu trẻ đẹp chừng mười bảy mười tám tuổi ở ngôi chùa Liên Tôn gần đó, vì ái mộ thơ Tử nên đã không ngần ngại căn bệnh phong cùi gớm ghiếc, ghé vào căn chòi để thăm chàng. Về sau chàng đã đưa ni cô vào trong thơ của mình với những tình cảm khá đặc biệt.
Một điều nữa, không những ma lực có ở trong lời thơ Tử mà còn nằm trong chính con người Tử khi chàng cất giọng đọc thơ. Yến Lan kể: "Nếu ai đã có lần nghe anh ngâm thơ thì mới cảm thấy hết cái cảm giác kỳ lạ lần đầu bắt gặp: nôn nao, nôn nao. Và cộng với lời thơ, gây nên một không khí mông lung. Chúng tôi như bị dồn vào thế giới nào có suối, có đồi, có bóng dáng những cuộc hành hương, và nhạc điệu cung văn, đồng bóng".
Yến Lan, Chế Lan Viên, Hoàng Tùng Ngâm, Trần Kiên Mỹ... là những người bạn thân thiết thường ghé thăm chàng để an ủi chàng, một tâm hồn quá khổ đau lúc này như chàng viết: "Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh/Hơn hết u buồn của nước mây/Của những tình duyên thương lỡ dở/Của lời rên xiết gió heo may". Bạn bè đã được nghe chàng đọc những vần thơ như chảy ra từ xương tủy. Yến Lan kể tiếp: "Anh đã biến thành những chuỗi dài đau khổ, cao thấp chen nhau như từng tia lửa bùng lên, như mảnh lụa tươi vàng bị xé vụn. Anh đã lấy xác thịt minh họa cho lời thơ. Có khi chúng tôi chảy nước mắt. Còn anh, anh đã thành một người say. Các lần ngâm thơ của anh đều diễn ra như thế vì những bài thơ ấy đều là những bài xót xa nhất. Đặc biệt là hôm anh ngâm bài Thánh nữ đồng trinh Maria. Xáo trộn trong đau thương, còn có nỗi trìu mến hân hoan kỳ lạ".
Hàn Mặc Tử đã đắm mình trong cái không gian vừa đau thương vừa bay bổng đó để làm ra những vần thơ khiến người đời say đắm cho đến lúc chàng phải bước chân vào trại phong Quy Hòa vào ngày 20/9/1940.
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ - Kỳ 12: Cái chết được báo trước
Căn bệnh phong không phải là căn bệnh có thể làm chết người một cách nhanh chóng. Đó là căn bệnh chủ yếu làm cho con người bị tàn phế. Một bệnh nhân cùng nhập viện với Tử vào lúc ấy, ở cùng phòng bệnh với Tử tên là Nguyễn Văn Xê vẫn tiếp tục sống thêm 55 năm nữa sau khi Tử qua đời, cho đến năm 1995 mới mất. Có lẽ Tử cũng biết điều đó vì anh rể của Tử hồi đó là y tá trong Bệnh viện Quy Nhơn và Tử cũng là người có trình độ hiểu biết cao. Nhưng Tử vẫn luôn luôn nghĩ về cái chết.Tử đã đoán trước được cái ngày mình sẽ ra đi. Trong bài Trút linh hồn chàng viết: "Máu đã khô rồi, thơ cũng khô/Tình ta chết yểu tự bao giờ/Từ nay trong gió, trong mây gió/Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ". Đó là một lời tuyên bố chắc chắn. Từ khi viết bài thơ này cho đến lúc Tử ra đi là khoảng thời gian khá xa và Tử mất là vì bệnh kiết lỵ. Thế nhưng chàng vẫn viết: "Ta trút linh hồn giữa lúc đây/Gió sầu vô hạn nuối trong cây/Còn em sao chẳng hay gì cả/Xin để tang anh đến vạn ngày". Em ở đây là ai? Có lẽ cả Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình lẫn Thương Thương và nhiều hình bóng giai nhân khác. Tất cả những nàng thơ ấy, lúc này đều đã rời xa chàng. Cách đó một thời gian, chàng đã tạm biệt Thương Thương theo lời đề nghị của người anh ruột nàng là Trần Tái Phùng: "Than ơi! Hỡi! Biệt ly chan chứa/Tưởng cùng em vui thú hưởng tiêu dao/Anh sắp đi và hai hàng lệ ứa/Cả đau thương dồn dập xót tâm bào".
Lúc này, nhiều câu thơ Tử làm ra cứ như lời tiên tri về cái chết của mình. Đây không phải là đặc điểm của những bài thơ thuộc Trường thơ loạn như đã nói trước đây. Bởi chẳng hạn trong Điêu tàn, Chế cũng có dùng những từ ngữ để chỉ sự chết chóc nhưng tuyệt nhiên ta không thấy bóng dáng thần chết ở đâu mà chỉ là biểu hiện của triết lý thơ điên loạn mà thôi. Còn một số câu thơ Tử viết về cái chết thì lại khác. Ý thơ rất là "gở". Chẳng hạn Tử viết: "Ta còn trìu mến biết bao người/Vẻ đẹp xa hoa của một thời/Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng/Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi". Khoảng giữa tháng 9/1940, Tử nhắn Quách Tấn từ Nha Trang ra Quy Nhơn gặp chàng. Lúc này chàng đã được làm xét nghiệm và người ta đã phát hiện ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng. Tử di ngôn lại cho Quách Tấn lo giữ gìn tài sản văn chương của chàng, sau này chàng chết đi thì tùy theo đó mà xử lý. Rồi chàng nhập bệnh viện phong. Nhập viện để chữa trị căn bệnh phong nhưng chàng coi như mình sắp đi vào cõi chết. Vì sao vậy?
Trong Duyên kỳ ngộ, nhân vật Nàng có nói: "Sao thơ anh nhuộm toàn màu ly biệt/Rên không thôi và nức nở cả ban đêm". Quả đúng như vậy thật. Ly biệt và chết chóc luôn có mặt trong thơ Tử vào thời gian sau này: "Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt/Mộng có thành là mộng ở đầu hôm", "Không ai trang điểm má đào/Cho ta say chết đêm nào đêm nay"... Quách Tấn cho biết, viết thư cho bạn, Tử hay nói về cái chết: "Đó là ngưỡng cửa phải bước qua để đi đến cõi vĩnh hằng". Cũng trong vở kịch thơ độc đáo này, có một đoạn thơ làm cho nhiều người ngạc nhiên vì nó rất giống những gì xảy ra sau này. Đó là khi nhân vật Chàng sắp sửa chia tay nhân vật Nàng, đã thốt ra lời than khóc: "Một mai kia ở bên khe nước ngọc/Với sương sao anh nằm chết như trăng/Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc/Đến hôn anh và rửa vết thương tâm". Theo hồi ức của người bạn đồng bệnh Nguyễn Văn Xê của Tử thì Tử mất vào ngày 11/11/1940 trong cô đơn lặng lẽ, không có bất kỳ một người thân nào bên cạnh. Ngay buổi chiều ngày 11/11/1940, tang lễ được tiến hành một cách đơn giản. Nơi Hàn Mặc Tử yên nghỉ nằm bên cạnh con suối, về mùa mưa nước thường dâng đầy bờ. Điều này y như câu thơ trên mà chàng đã viết trước đó rất lâu.
Chàng đã nằm lại bên "khe nước ngọc" đó cho đến gần 20 năm sau mới được gia đình đưa đi nơi khác. Năm 1959, gia đình Tử cùng với người bạn thân là Quách Tấn tiến hành tìm một mảnh đất khác cho chàng. Sinh thời chàng rất thích cảnh Đèo Son nhưng vì ở đó đang là khu quân sự thuộc chính quyền Sài Gòn nên đành phải tìm đến Gành Ráng. Ngày 13/1/1959, Tử được cải táng về Gành Ráng.
Như vậy là, một đời thơ dữ dội của nhà thơ có số phận lạ kỳ Hàn Mặc Tử đã kết thúc. Chàng đã được thỏa mãn cái ước ao mà ngày nào vị phó soái của Trường thơ loạn Chế Lan Viên từng viết: "Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo".
Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ - Kỳ cuối: Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc
Trong loạt bài này, chúng tôi đã sử dụng bút danh Hàn Mặc Tử cho nhà thơ. Tuy nhiên cũng xin đưa ra đây vấn đề tranh cãi hai bút danh này cho bạn đọc tham khảo. Vì đây là một cuộc tranh cãi thú vị.
Cho đến nay, những nhà sưu tầm, nghiên cứu, những người quan tâm vẫn phân thành 2 "trường phái" khác nhau: Hàn Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Vì thế các cuốn sách, bài báo in ra cũng chia làm 2 nhóm: nhóm Mặc và nhóm Mạc.
Những "đại biểu tiên phong" cho "trường phái Mạc" có thể kể: Giáo sư Hoàng Như Mai, Giáo sư Văn Tâm, nhà sưu tầm Phạm Xuân Tuyển. Phạm Xuân Tuyển đã làm một bản thống kê những tài liệu sử dụng chữ Mạc như sau: Báo Người Mới trong các số chuyên đề về Tử năm 1941, Trần Thanh Mại trong cuốn sách viết về Tử năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam năm 1942, Phó tiến sĩ Phùng Quý Nhâm trên Kiến Thức Ngày Nay số 47, giáo sư Hà Minh Đức trong Tổng tập Văn học Việt Nam số 27, giáo sư Lê Đình Kỵ trong Thơ Mới - Những bước thăng trầm - 1993, giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tập Thơ tình yêu - 1995, giáo sư Hà Vinh - Khoa tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội trong Tạp chí Văn Học - 1995, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh - Phó tiến sĩ Trần Đăng Xuyền trong sách Những bài văn hay và khó - 1995...
Còn những người theo "trường phái Mặc" gồm những ai? Có lẽ hai người quan trọng nhất là Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ và Quách Tấn, bạn thân nhà thơ. Nguyễn Bá Tín đã dùng Mặc trong hai cuốn sách quan trọng của mình, cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi - 1991 và Hàn Mặc Tử trong riêng tư - 1994.
Quách Tấn cũng dùng Mặc trong Bóng ngày qua - 2000. Những người khác có thể kể: Chế Lan Viên trong Tuyển tập Hàn Mặc Tử - 1987, Lữ Huy Nguyên trong Hàn Mặc Tử thơ và đời - 1994, Trần Thị Huyền Trang trong Hàn Mặc Tử hương thơm và mật đắng, Vương Trí Nhàn trong Hàn Mặc Tử - Hôm qua và hôm nay... Nguyễn Bá Tín cho biết, bút danh Hàn Mặc Tử đã có trước, còn bút danh Hàn Mạc Tử chỉ là bạn bè đặt cho để trêu đùa: "Có nhiều hôm anh ngồi thừ trên chiếc ghế mây, nhìn qua bức mành tre sáo trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trông anh đến thiểu não. Chị Cúc biết điều đó, về sau kể với con gái chị Như Lễ rằng: Nghĩ tội nghiệp anh quá. Bạn bè đến chơi trông thấy anh ngồi buồn bã như kẻ thất tình, nên thường trêu cợt anh là con người sau bức rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử. Chữ Hàn ở đây có nghĩa là lạnh và chữ Mạc không dấu là bức màn. Hai chữ Hàn Mạc là bức rèm lạnh. Anh chỉ cười, không nói gì, cũng không để ý đến nữa. Mãi về sau khi anh qua đời còn nhiều người vẫn tưởng lầm bút hiệu của anh là Hàn Mạc Tử". Ông Tín cho biết, Tử vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến Quốc, nổi tiếng chủ trương thuyết Kiêm ái, nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Dịch, thương yêu hết mọi người. Chữ Mặc Tử có ý nghĩa là môn đồ Mặc Dịch. Chữ Mạc Tử thì không có ý nghĩa gì. Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ý nghĩa một thi sĩ nghèo nàn, nhưng tình thương rộng rãi bao la.
Quách Tấn thì kể tỉ mỉ hơn và có phần khác Nguyễn Bá Tín. Quách Tấn cho biết, khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy bút danh là Minh Duệ Thị. Sau đổi là Phong Trần. Tử nổi tiếng với bút danh Phong Trần nhờ cuộc xướng họa thơ văn lịch sử với Phan Bội Châu. Khi Quách Tấn quen thân Tử, Quách Tấn chê bút danh Phong Trần không hợp với Tử. Vì thế Tử đổi qua bút danh Lệ Thanh. Bút danh này đã gắn chặt với tập thơ Lệ Thanh Thi Tập của Tử. Nhưng được ít lâu Quách Tấn lại chê. Tử lại đổi qua Hàn Mạc Tử. Quách Tấn lại chê nữa. Khi đó Tử nổi nóng. Quách Tấn liền gợi ý: "Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?". Nghe vậy, Tử thêm "bóng trăng" là dấu á trên đầu chữ a nên chữ Mạc thành ra Mặc. Từ đó bút danh đổi nghĩa từ kiếp rèm lạnh ra anh chàng bút mực. Bút danh này khiến Tử rất thích và dùng luôn.
Lời giải thích trên đây nghe cũng thật có lý nhưng mấy chục năm nay vẫn không thuyết phục được những người theo "trường phái Mạc", cho nên cuộc tranh cãi này chưa biết bao giờ kết thúc nếu không tìm được bút tích của chính nhà thơ để chứng minh ai đúng ai sai.
Đồi Cát Bay Mũi Né
Kính thưa Quý Khách! Bây giờ xe của chúng ta sẽ chuyển bánh đưa Quý khách vượt qua chặng đường rất đẹp song song với bờ biển khoảng 22km để đến khu du lịch ở Mũi Né- Hòn Rơm, từ trên xe quý vị sẽ thấy vẻ đẹp của biển Phan thiết xen lẫn với những rặng dừa Hàm Tiến thật nên thơ, trữ tình, lãng mạn. Trước khi đến Mũi Né xe của đoàn chúng ta sẽ đi quả xã Hàm Tiến, quý vị sẽ thấy bãi đá Ong Địa nằm ở ven biển với những tảng đá có hình thù ngộ nghĩnh, trông giống như cái bụng tròn, to lớn của Ong Địa vì vậy mà người ta gọi là “Bãi đá Ong Địa”, nơi đây còn có 1 Miếu thờ Ong Địa nằm ở ven biển.
Đến Mũi Né quý vị không chỉ được ngụp lặn nô đùa cùng sóng biển và làn nước trong xanh xen lẫn với cát biển trắng xoá mà quý vị sẽ cảm nhận được thêm 1 điều lý thú và ấn tượng khi trông thấy thắng cảnh độc đáo nhất của Mũi Né đó là những đồi cát tưởng dài như vô tận mà người dân địa phương gọi là “đồi cát bay” hay “đồi cát di động”. Đây quả là những đồi cát cổ quý giá với những đường cong tuyệt mỹ, những vân cát sống động, những đồi cát vàng mịn xen lẫn với những đồi đất đỏ tươi dưới áng nắng mặt trời tạo nên một bức tranh tuyệt mỹ, nhìn xa trông giống như một đụn rơm vì vậy mà người ta đã gọi nơi đây là Hòn Rơm. Khi đặt chân lên đồi cát quý vị sẽ cảm nhận được sự mênh mông của cát như 1 sa mạc, như lạc vào thế giới chỉ toàn là cát, thiên nhiên ở đây gần như hoang dã, những xoáy cát không 1 dấu chân người và những gốc cây trơ trọi. Quý vị sẽ tận mắt chiêm ngưỡng những đồi cát tuỵêt đẹp luôn thay hình đổi dạng tùy theo ánh sáng, độ gió thổi và những trận mưa, có khi đồi cát bốc lên thành những sóng cát mênh mông, có lúc đồi cát lại lung linh như 1 làn sương mờ ảo. Vào mùa nắng gió bấc thổi cát bay lên liên tục làm biến dạng, không bao giờ gặp lại hình dáng củ. Và từ bao năm qua những đồi cát này đã trở thành đề tài nghệ thuật của nhiều nghệ sỹ nhiếp ảnh. Thời khắc chiêm ngưỡng đồi cát thú vị và hấp dẫn là lúc bình minh ló dạng hoặc lúc hoàng hôn. Từ trên đồi cát quý vị sẽ thấy toàn bộ cảng Mũi Né được bao phủ bởi biển xanh 1 cách hài hoà tạo nên bức tranh hoang sơ và hữu tình mà không nơi nào có được. Tối đến Mũi Né sáng rực hẳn lên bởi đoàn thuyền đánh cá rực sáng choang nối đuôi nhau trải dài hàng chục cây số, có lúc nhìn ra biển quý khách sẽ có cảm tưởng như dưới nước có hàng ngàn ngôi sao sáng.
Mũi Né về đơn vị hành chánh là 1 phường của thành phố Phan Thiết. Các giả thuyết tại sao vùng này có tên Mũi Né, có người cho rằng: vào mùa gió tây Nam thổi mạnh ở khu vực bãi trước nên những tàu bè đánh cá phải đâu vào bãi sau để tránh gió. Mũi đất để tàu bè tránh gió nên người ta gọi là Mũi Né. Còn 1 giả thuyết khác: đêy là vùng đất cuối cùng của người Chăm, nơi đây có 1 công chúa chăm tên Nà Ní đã dựng một cái am nhỏ để sống đến cuối đời mình. Hiện nay cái am đó vẫn còn, người dân ở đây gọi là “Am Bà Giáng” có nghĩa là ‘Bà Trời’.
Từ năm 1997, Mũi Né có 2 công ty liên doanh: một hợp tác xã và một công ty nước ngoài cùng với 20 cơ sở tư nhân cở vừa và nhỏ hợp thành một mạng lưới khai thác du lịch với nhiều loại hình khá đa dạng như: tắm biển, lái ca nô, lướt ván, lữa trại, trượt cát... phụ vụ cho đủ mọi đối tượng từ người dân bình thường, học sinh, sinh viên cho đến khách nước ngoài.
Thắng Cảnh Bàu Sen (Bàu Trắng)
Tại thôn Hồng Lâm, xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình (nằm trong tuyến dã ngoại Hòn Rơm kéo dài). Bàu Trắng là Hồ nước ngọt cách Phan Thiết khoảng 65km về hướng Đông Bắc. Hình thành khá lâu đời, bàu này nằm ở giữa vùng đồi cát mênh mông xen lẫn nhiều khóm cây rừng thấp. Bàu có nhiều bông sen nên cũng có nhiều người gọi là “Bàu Sen”. Dân gian xưa gọi là Bàu Ông, Bàu Bà vì bàu chia làm 2 phần được cách ngăn bằng một ngọn đồi (và con đường đất đá đỏ mới mở rộng băng ngang qua). Nước trong hồ họt và trong. Từ xa nhìn thấy một màu xanh mát dịu phủ lên những đồi cát trắng. Dù là một bàu nước do thiên nhiên tạo thành nhưng vì giữa vùng khô và nước biển mặn, dân gian vẫn tỏ lòng biết ơn do bàu cung cấp nguồn nước quý nuôi sống con người và các loài vật ở đây trong những ngày nắng hạn. Bàu này có nhiều loài cá lớn, hấp dẫn nhân dân trong vùng thả câ, kể cả những người thích đi câu từ xa tìm đến. Sáchxưa viết: “Hồ trắng có 2 hồ, hồ trên và hồ dưới, ở phía Tây Nam huyện Hòa Đa, phía tây Ba Động (địa danh củ, PCS). Hồ trên chu vi 8 dặm lịch, hồ dưới chu vi 22 dặm lịch, nước trong ngọt, bốn mùa không tăng không giảm. Phía Tây Bắc là động cát, phía Tây Nam là chân rừng, trên bờ phía Nam có đền thờ Chúa động”
Nơi sâu nhất của bàu Trắng là 19m, cạn dầ về phía bờ. Quanh bờ có nhiều bông sen, mùa hè sen nở rộ, tô điểm thêm cho vùng cát trắng những màu sắc rực rỡ. Bàu Trắng là nơi có nguồn nước ngọt tự nhiên duy nhất ở xã Hòa Thắng, như một bàu sữa lớn nuôi nhân dân ở vùng này. Từ xa xưa, chung quanh Bàu Trắng có nhiều làng thôn của người Chăm sinh sống, đã sử dụng nước trong hồ. Người Chăm đã dựng đềnn thờ nữ thần Po Nagar về phía Nam Bàu Trắng. Về sau ngôi đền bị sụng đổ nhưng dấu tích vẫn còn.
Vào năm 1867, cụ Nguyễn Thông đi ngang qua, thấy cảnh đẹp kỳ lạ, đã gọi là Hồ Trắng, và làm nhiều bài thơ vịnh để ca ngợi, trong đó có bài “Quá Bình Nhơn sa mạc” (qua bãi cát Bình Nhơn) và “Bạch Hồ nhàn hành” (dạo chơi Hồ Trắng). Về nguồn nước mát quanh năm, Bàu Trắng làm dịu đi không khí nóng bỏng của đồi cát mênh mông và làm cho cát ẩm ướt, đi không lún chân, cát ít tung bay như nhiều đồi cát khác, vì thế cả đồi cát ở đây được coi là kỳ diệu, một thắng cảnh tuyệt vời hiếm có, vừa hùng vĩ vừa dịu dàng.
Đền Thờ Vua Pô – Klong – Mơh-nai
Kính thưa quý du khách! Theo tín ngưỡng người Chămpa, việc thờ phụng có 2 hình thức cơ sở được thể hiện vào 2 thời kỳ khác nhau có liên quan đến sự thăng trầm của vương quốc này. Nay tỉnh Bình Thuận lưu lại di tích khiến cho du khách chú ý.
1. Từ TK XVII trở về, người Chămpa lập đền háp cao để thờ, được xây dựng bằng kỹ thuật kiến trúc khá đặc biệt trong đó họ dùng chất kết dính bền chặt thật lạ lùng. Cả ngàn năm sau các nhà nghiên cứu khi khảo sát tìm hiểu phải đau đầu. Song song với kỹ thuật kiến trúc, điêu khắc và nghệ thuật phô diễn tư tưởng cũng được thể hiện một cách tinh vi có giá trị cao, sư kiện ày chứng tỏ người Chămpa cổ có được nền văn minh vượt trội.
2. Từ TK XVII về sau này, đất nước Chămpa suy yếu, diệt vong kỹ thuật kiến trúc điêu khắc bị thất truyền.
Nhu cầu thờ phụng theo tín ngưỡng vẫn còn thúc đẩy, người Chămpa không đủ khả năng xây dựng đền tháp nên chuyển cách xây dựng theo kiến trúc đền thờ thấp và rộng sử dụng vật liệu gỗ, ngói và vôi như người Việt với hình dạng tương đồng với ngôi chùa Việt lúc bấy giờ. Đền thờ vua Pô-Klong_Mơ-Nai tiểu biểu cho lối kiến trúc thờ phụng mới này.
Đền thờ được người Chănpa xây dựng trên đỉnh đồi cát Lương Bình, xã Lương Sơn về phía Nam cách huyện lỵ Bắc Bình 15km và TP. Phan Thiết khoảng 50km về phía Bắc. Vua Pô-Klong-Mơ-Nai là 1 trong những vị vua cuối cùng của vương quốc Chămpa trước khi vương quốc này tan rã. Ong lên ngôi vào khoảng đầu TKVXVII đến năm 1627 nhường ngôi lại cho con rễ là Pô-Klong-Ga-Hul.
Theo các nhà khoa học Pháp lịch sử Chămpa ở TK XIX đền thờ Ông gồm 5 gian gọi là điện thờ, 5 gian thờ được bố trí theo hình chữ T gồm có 3 dảy 3 gian dùng để thờ phụng. Gian giữa thờ tượng vua Pô-Klong-Mơ-Nai gian bên phải thờ tượng thứ phi người Việt (là công chúa con của 1 vị chúa Nguyễn) cùng một số tượng Kút con của vua và thứ phi. Bên trái là gian thờ bà Hoàng Hậu Chăm Pô-bia-sơn vở cả của vua cùng 1 số tượng Kút con của Bà này. Dãy nhà trước gồm 2 gian lớn để trống dùng làm nơi sửa sắm lễ vật và tổ chức các nghi lễ bên ngoài trước khi vào đền thờ.
Tượng vua Klong-Mơ-Nai được các nghệ thuật Chăm tạc từ khối đá xanh xá, bằng 1 nghệ thuật điêu khắc tinh xảo pho tượng phô diễn nhà vua đang ngự ở tiền đình đầu đội vương miện trang nghiêm. Đây là 1 trong những pho tượng chăm có kích thước lớn còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày nay, các tượng hoàng hậu và thứ phi cùng số tượng Kút cũng đều chạm khắc công phu, tỉ mỉ, rất tiếc pho tượng bà thứ phi người Việt bị kẻ gian đập phá mất phần đầu và 1 phần thân. Tượng đã được khôi phục lại những phần hư hỏng. Hàng năm, cá gia đình hậu duệ nhà vua và đồng bào Chăm tổ chức nhiều lễ nghi tại đền thờ. Lớn nhất là lễ hội Katê vào tháng 7 Chăm lịch. Trong lễ hội long trọng này có nghi thức ca múa hát theo truyền thống phong tục tập quán Chăm. Vào dịp lễ này tượng vua được đội vương miện thật bằng vàng, mặc áo đại lễ, tượng hoàng hậu và thứ phi cũng được mặc áo đội mão sau thủ tục “mộc dục”
Đền thờ vua Pô-Klong-Mơ-Nai đã từng bị cháy vào cuối thế kỷ XIX sau đã được người Chăm khôi phục lại nhiều lần và tiếp tục thờ phụng. Lần khôi phục sau cùng vào năm 2001. đền thờ đã được Nhà Nước xếp hạng di tích lịch sử-nghệ thuật cấp quốc gia năm 1991.
CỔ THẠCH – CHÙA HANG
Kính thưa Quý Du Khách!
Chùa Cổ Thạch cũng gọi là Chùa Hang vì đây là 1 ngôi chùa cổ nằm trong hang động trên đồi núi Cổ Thạch ở độ cao 64m. Đây là 1 danh lam thắng cảnh của tỉnh Bình Thuận, 1 tuyến du lịch thu hút nhiều khách từ thành phố Hồ Chí Minh.
Đối với các tăng ni phật tử thì Cổ Thạch Tự là 1 ngôi chùa cần phải đến viếng và nằm trong danh sách các chùa phải đi hành hương hàng năm vào dịp đầu xuân. Chùa Cổ Thạch tại bờ biển xã BìnhThạnh cách trung tâm thành phố Phan Thiết 105km về hướng Bắc do thiền sư Bảo Tạng lập trong hang đá vào giữa TK XIX.
Đường lên chùa được xây bậc, lan can hai bên chùa đắp rồng, trên núi đá nhỏ sát bờ biển có tượng Quán Thế Am, cạnh chùa là bãi đá Cà Được nhiều màu sắc chạy dọc theo bờ biển gần 1km.
Toàn cảnh xung quanh Chùa Hang thật tuyệt mỹ, có nét buồn man mác quyến rũ những ai muốn thoát cảnh hồng trần. Cổ Thạch là 1 vùng núi đá rộng gồm hàng vạn tảng đá lớn nhỏ, có tảng nguyên khối như ngôi nhà , có tảng giống chiếc bàn đá, nhiều tảng úp chồng lên nhau tạo nên những điểm dã ngoại khá lý thú cho những ai thích khám phá và có máu phưu lưu mạo hiểm.
Sự yên tĩnh hoang sơ của rừng núi Cổ Thạch là những yếu tố tự nhiên thu hút sự chú ý của những vị chân tu từ nhiều thế kỹ trước. Nhiều am chùa lần lượt hình thành nối tiếp nhau trải rộng trên trên một ngọn đồi bao quát chừng 4ha. Sau cổng tam quan là khu chính điện có những tảng đá dựng cao vút, tiếp theo là nhà Tổ, gác chuông, lầu trống, nhà thiền, từ đường...Mỗi hang ngách có 1 vị trí riêng do các thế hệ nhà sư trước đây và sau này quy định chẵng hạn như: Hang thờ vị Tổ sư khai lập chùa (sư Bảo Tạng) có tượng nhà sư cùng nhiều bài của những nhà sư khác đã góp công lao xây dựng chùa, hang thờ Phật Chuẩn Đề là hang có tượng Phật 18 tay cùng nhiều tượng cổ khác, hang Tam Bảo thờ 23 pho tượng Phật cổ có kích thước và niên đại khác nhau. Cổ Thạch Tự còn lưu giư nhiều di sản văn hoá lịch sử Hán Nôm như: Liễn, Hoành Phi, Câu Đối và Đại Hồng Chung, Trống Cấm có niên đại từ đầu thế kỹ XIX.
Hàng chục năm qua Cổ Thạch Tự do hoà thượng Thích Minh Đức trụ trì đã được xếp hạng di tích thắng cảnh cấp quốc gia năm 1993.
9 kỷ lục của Bình Thuận
Đêm hội đã xác lập tỉnh Bình Thuận có 9 kỷ lục VN gồm: “Địa phương có diện tích trồng thanh long nhiều nhất VN”; “Địa phương có nhiều resort - hotel nằm dọc biển nhiều nhất Việt Nam”; “Phan Thiết - địa phương có thương hiệu sản xuất nước mắm đầu tiên tại VN”; Chùa Phật Quang (Phan Thiết) - “Ngôi chùa có mõ gia trì bằng gỗ lớn nhất VN”; "Đồi cát Mũi Né - đồi cát thay đổi hình dạng tự nhiên nhiều nhất VN”; “Bãi đá có hình dạng và màu sắc nhiều nhất VN” - bãi đá Cổ Thạch nằm ở xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong; Công ty cổ phần nước Khoáng Vĩnh Hảo - “Doanh nghiệp đầu tiên nuôi trồng tảo Spirulina ở VN”; “Lễ hội nghinh Ông Quan Thánh Đế Quân lớn nhất VN” của cộng đồng người Hoa ở TP. Phan Thiết và “Rồng Xanh dài nhất VN” - con rồng có chiều dài 49 mét, màu xanh lá cây, được làm cách đây hơn 100 năm.Nhân kỷ niệm Ngày Du lịch Bình Thuận (24-10), tối 23-10, tại Quảng trường Nguyễn Tất Thành, thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) đ khai mạc Đêm hội tôn vinh kỷ lục VN và ngành du lịch Bình Thuận do Công ty cổ phần Kỷ lục VIETKINGS tổ chức.