Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Translate

Tài Liệu Thuyết Minh Vũng Tàu (Phần 2)

CÔN ĐẢO – HÒN NGỌC CỦA VŨNG TÀU

Côn Lôn tức Côn Đảo là một quần đảo xa xôi trên biển đông, nơi đã từng là “địa ngục trần gian” giam cầm những người Việt Nam yêu nước chống lại chế độ Thực Dân Pháp và chính quyền Sài Gòn trong suốt 113 năm ( 1862 – 1975 ). Ngày nay, côn đảo đã chuyển mình, là thiên đường du lịch xanh với những bờ cát trắng, nước biển trong xanh, rừng nguyên sinh và núi non hùng vĩ. Những đảo nhỏ bao quanh cũng là điểm hẹn lý tưởng cho các bạn trẻ yêu thích dã ngoại, bơi lặn  …… hay đi tìm một không gian lãng mạn riêng tư. Bao quanh Côn Lôn tức là Côn Đảo có 15 hòn đảo khác là:
1.       Hòn Côn Lôn nhỏ tức Hòn Bà ngày nay (còn gọi là Phú Sơn) nằm về phía Tây Nam của hòn Côn Lôn có diện tích 5,450km2. Hòn Côn Lôn nhỏ cách hòn Côn Lôn lớn bởi một khi nước khoảng khoảng 20m gọi là Họng Đầm (cửa tử). Nơi đây còn có đỉnh núi cao 321m gọ là Đỉnh Tình Yêu.
2.       Hòn Bảy Cạnh (hay Phú Cường) cách Côn Lôn 7km về phía Đông Nam, có diện tích 5,500km2. Ở đây có ngọn hải đăng, được xây dựng từ năm 1884. Hiện nay ngọn hải đăng này vẫn còn đang hoạt động với tầm bán kính 72km, để hướng dẫn tàu thuyền đi lại gần vùng biển Côn Đảo.
3.       Hòn Cau (hay Phú Lệ) có diện tích 1,800km2 nằm cách Côn Lôn 12km về phía Đông. Đảo này có nhà ngục giam tù chính trị và trong thời gian Pháp thuộc 1930 – 1931 đồng chí Phạm Văn Đồng đã bị đày ra đày ra đảo Hòn Cau này.
4.       Hòn Bông Lan (hay Phú Phong) có diện tích 0,150km2 có hình dạng như chiếc bánh bông lan
5.       Hòn Vung (hay Phú Vinh) có diện tích 0,150km có hình dạng như chiếc vung nồi úp chụp trên mặt biển xanh.
6.       Hòn Trọc: (hay Phú Nghĩa) có diện tích 0,400km2, nơi này có nguồn khai thác ngọc trai quý giá.
7.       Hòn Trứng (hay Phú Thọ): có diện tích 0,100km2 với hình dạng như một quả trứng khổng lồ.
8.       Hòn Tài Lớn (hay Phú Bình) có diện tích 0,380km2
9.       Hòn Tài Nhỏ (hay Phú An) có diện tích 0,250km2.
10.    Hòn Trác Lớn (hay Phú Hưng) có diện tích 0,250km2.
11.    Hòn Trác Nhỏ (hay Phú Thịnh) có diện tích 0,100km2. Bốn hòn đảo này là chuổi đảo liên tiếp nối với hòn Bảy Cạnh  trải dài từ Đông Bắc xuống Tây Nam che chắn bên ngoài hòn Côn Lôn.
12.    Hòn Tre Lớn (hay Phú Hòa) có diện tich 0,750km2
13.    Hòn Tre Nhỏ (hay Phú Hội) có diện tích 0,250; hai đảo này có rất nhiều tre. Năm 1930 – 1931 thực dân Pháp đã dùng Hòn Tre Lớn làm nơi lưu đày tù chính trị như ở Hòn Cau và nơi đây đồng chí Lê Duẩn bị đày ải một thời gian.
14.    Hòn Anh (hay hòn Trứng Lớn)
15.    Hòn Em (hay hòn Trứng Nhỏ) hai đảo này nằm phía Tây Nam của Côn Lôn, và cách đảo chính gần 25 hải lý.
Lịch sử :
·       1284: Nhà thám hiểm Marco Polo ghé Côn Đảo để tránh bão
·        đầu thế kỷ 16, những thủy thủ Bồ Đào Nha lần đầu đặt chân lên côn đảo
·       1783: Nguyễn Ánh bị truy đuổi ra tận côn đảo.
·       28/11/1787: Linh mục Bá Đa Lộc thay mặt chúa Nguyễn kí hiệp ước Versailles, công nhận một số quyền lợi của Pháp tại côn đảo
·       28/11/1861: Thực dân Pháp đánh chiếm côn đảo.
·       20/3 đến 19/4/1895: Nhà soạn nhạc lừng danh người pháp là Camille Saint Saens hoàn thành 3 chương cuối của cở nhạc kịch Brunenhilda tại Côn Đảo.
·       1862 đến 1975: Côn Đảo là nơi giam cầm những người yêu nước chống lại chế độ thực dân pháp và chính quyền sài gòn
·       1976 đến nay: Côn Đảo là điểm hẹn của những cựu tù và những người yêu thích thiên nhiên.
Côn Đảo có 285 loài thực vật, 100 loài chim thú; nhiều loại cây đặc trưng cho rừng ở Miền Bắc, miền Trung, miền Nam và rừng nước mặn. Có những loại chim thú riêng có ở Côn Đảo như: sóc mun, chim gầm ghì trắng và nhiều sản vật quý như tổ yến, đồi mồi, vích, cá heo, cá mập, hải sâm, rau câu…
Cách Vũng Tàu 97 hải lý, Côn Đảo là một quần đảo bao gồm 16 đảo nằm ở 10636’ kinh đông và 8046’ vĩ bắc, đảo lớn nhất là côn sơn có diện tích 51,5 km2, với chiều dài khoảng 15 km và chiều rộng từ 1 – 3 km. Đảo có địa hình đồi núi, hầu hết được phủ rừng, ngọn núi cao nhất là đỉnh thánh giá cao 577m.
Côn Đảo có khí hậu nhiệt đới với hai mùa rõ rệt trong năm : Khí hậu Côn Đảo mát mẻ, thuận lợi cho sức khỏe con người. Nhiệt độ tring bình hàng năm 28oC. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 (gió mùa tây nam), mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 (gió mùa đông bắc), lượng mưa trung bình là 2.200,7 mm, nếu đến côn đảo bằng máy bay, chúng ta có thể đi bất cứ lúc nào trong năm, nếu ra đảo bằng tàu thủy,  thì thời gian tốt nhất từ tháng 3 đến tháng 7 – đây là mùa biển êm. Côn Đảo có 200km bờ biển với hàng chục bãi tắm đẹp. Nổi tiếng là bãi Rong, bãi Đầm Trầu, bãi Ông Đụng.
          Những phát hiện về khào cổ học cho biết lớp dân cư đầu tiên đã có mặt ở Côn Đảo cách đây từ 4.000 – 5.000 năm. Họ có mối quan hệ văn hóa gần gũi với chủ nhân di tích khảo cổ thời hậu kỳ đồng thau, sơ kỳ đồ sắt ở lưu vực sông Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ).
          Trong quá trình lập nghiệp ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã quan tâm thực hiện chủ quyền đất nước với các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và Côn Đảo. Đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1752), Côn Đảo do hội Hoàng Sa quản lý. Thất bại trong cuộc giao tranh với quân Tây Sơn năm 1783, chúa Nguyễn Ánh đã rút quân ra Côn Đảo, đem theo 100 gia đình, lập nên các làng An Hội, An Hải, Cỏ Ống và Hòn Cau. Nhiều năm sau, dân nghèo các tỉnh Vĩnh Long, Gia Định, Định Tường, Biên Hòa được chúa Nguyễn khuyến khích ra lập nghiệp tại Côn Đảo. Chính quyền sở tại ưu tiên cấp vốn, công cụ, trâu bò và phương tiện ra đảo cho họ.
          Từ thưở ấy trong công cuộc khai phá quần đảo, dựng làng, lập ấp đã để lại nhiều dấu ấn trong nhiều truyền thuyết gắn với tên núi, tên làng trên hòn đảo này.
          Từ sau ngày giải phóng, Côn Đảo là một đơn vị hành chánh cấp tỉnh, sau trở thành một huyện của TP. Hồ Chí Minh, rồi thuộc tỉnh Hậu Giang, đến tháng 5/1979 là một quận của đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo; từ tháng 10/1991 đến nay là một huyện của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
          Qua nhiều đổi thay, Côn Đảo bao giờ cũng là một đơn vị hành chính hết sức đặc biệt: Tỉnh không có quận, huyện không có xã, phường. Trong nhiều năm qua dân số Côn Đảo biến động ở mức 2.000 người, tương đương với dân số ở một xã hẻo lánh ở miền núi. Lịch sử đã để lại trên hòn đảo này  một nhà tù với chiều dài hơn một thế kỷ. trong hơn một thế kỷ ấy, ngoài hệ thống nhà tù và bộ máy trị tù, Côn Đảo không có một cơ cấu dân cư, không có một cơ sở kinh tế - xã hội nào khác. Thêm vào đó là sự cách trở với đất liền khiến cho việc phát triển kinh tế xã hội ở Côn Đảo gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
          Côn Đảo từ hơn 40 năm qua, kể từ ngày hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ Côn Đảo đặt lên hàng đầu nhiệm vụ bào tồn, tôn tạo khu di tích lịch sữ Côn Đảo, kết hợp với việc khai thác những tiềm năng kinh tế và bảo vệ an ninh quốc phòng. Từng bước ổn định đời sống của cán bộ và nhân dân trên đảo, ngăn ngừa sự xuống cấp của khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo, xây dựng đề án bảo tồn khu di tìch và xây dựng quy hoạch tổng thể huyện Côn Đảo (CĐ) là một trong những vấn đề chủ yếu mà Đảng bộ và nhân dân Côn Đào đã nổ lực phấn đấu trong 20 năm qua.
          Những năm gần đây CĐ đã thực sự chuyển mình, phát huy mạnh mẽ những tiềm năng vốn có. Một trung tâm dịch vụ đánh bắt và thu mua hải sản đang được hình thành trên đảo. Hàng trăm ghe đánh cá từ các tỉnh miền Trung, miền Tây quần tụ về đây với số lượng ngư dân có lúc đông hơn dân đảo. Hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc giữa CĐ với đất liền đã có những bước tiến lớn. Số lượng khách du lịch đến thăm CĐ ngày càng nhiều, trong đó có nhiều đoàn khách quốc tế. Khách đến thă CĐ đã tận mắt chứng kiến những di vật lưu lại mà người tù chính trị đã làm nên những kỳ tích lớn lao trong một nhà tù khổng lồ và khắc nghiệt có một không hai ở xứ Đông Dương. Đứng trước một di tích lịch sử chuồng Cọp, Chuồng Bò, xà lim, hầm đá hay một nghĩa trang liệt sỹ Hàng Dương, Hàng Keo với vô  số nấm mộ có tên và không tên thì không ai có thể dửng dưng trước nền độc lập của dân tộc và máu xương của các thế hệ tiền bối. CĐ đã và đang thực sự trở thành một trường học lớn cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Côn Đảo Nguồn Gốc các địa danh
SỰ TÍCH NÚI CHÚA
Núi Chúa cao 515m, nằm ở khu vực trung tâm đảo lớn sừng sững nhu bức tường thành che chắn phía tây bắc cho thị trấn Côn Sơn. Chưa phải là ngọn núi cao nhất (núi An Hải cao 575m) nhưng núi Chúa gắn liên với truyền thuyết thời chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu ra Côn Đảo. Năm 1883, bị quan Tây Sơn đánh cho đại bại ở cửa Cần Giờ, Nguyễn Ánh chạy dạt ra Côn Đảo. Sợ vía quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh leo tuốt lên núi ở, buộc quân sỹ phục dịch rất khổ sở. Chẳng bao lâu, chuyến thuyền quân Tây Sơn đuổi đến, Nguyễn Ánh tháo chạy ra đảo Thổ Chu, bỏ lại hàng trăm thân quyến, trong đó có vị cận thần và bà thứ phi đã dám đứng ra khuyên can Ánh đừng nên cõng rắn cắn gà nhà. Ngọn núi được mang tên núi Chúa như một địa danh chúa ngự, vừa hàm ý chê cười chúa Nguyễn Ánh tham vọng lớn mà khí phách, can trường chẳng có được bao nhiêu. Trên núi còn dấu tích một bàn cờ khắc trên đá, vừa tầm 2 người ngồi chơi, tục truyền do quân sỹ tạo dựng làm nơi vui chơi cho Chúa. Năm 16962, chúa đảo Lê Văn Thể cho quân truy tìm, sửa sang lại bàn cờ, chuẩn bị rước Tổng Thống ngụy Ngô Đình Diệm ra thăm vào dịp lễ Nôen năm ấy, nhưng cuộc đón tiếp của thiếu tá Thể không thành, Ngô Đình Diệm bãi bỏ chuyến đi vì phong trào cách mạng miền Nam đang tiến công mạnh mẽ.

SỰ TÍCH HÒN BÀ
Hòn Bà nằm kế hòn lớn Côn Đảo, cách nhau một doi nước hẹp gọi là Họng Đầm tạo hợp với hòn Côn Đảo thành Vịnh Bến Đầm, nước sâu, kín gió, có thể xây dựng thành hải cảng rất tốt. Hòn Bà rộng hơn 5km2, trên đỉnh có một tảng đá dựng tựa hình vọng phu, có người nói rằng vì thế mà có tên Hòn Bà. Một cách giải thích khác cho rằng Hòn Bà do chữ Bến Đầm, họng Đầm (tiếng Pháp: Dame là Bà, phụ nữ) mà ra. Những người dân Côn Đảo có cách giải thích riêng gắn với truyền thuyết về bà. Bà thứ phi của Nguyễn Ánh tên tục Nguyễn Thị Răm, được tôn là Bà Phi Yến. Biết Nguyễn Ánh định gửi Hoàng Tử Cảnh làm con tin để cầu viện binh Pháp, chống quân Tây Sơn, Bà đã lựa lời khuyên:
Việc chúa công đánh nhau với Tây Sơn nên mộ binh trong xứ. Nếu nhờ ngoại viện, có thắng cũng chẳng vẻ vang gì, mà thiếp e có nhiều chuyện rắc rối về sau. Nổi giận vì trái ý,  Ánh ghép Bà vào tội thông đồng với Tây Sơn. Nhờ các cận thận can gián, Bà khỏi tội chém, nhưng bị giam vào hang núi trên hòn đảo nhỏ, nay mang tên Hòn Bà. Trước hang đá có nhiều hòn lớn chắn ngang, bà không ra được, trong hang chỉ có một ít bánh dầy và một chum nước lã vừa đủ sống chừng nửa tháng. Tại đó có con vượn bạch là một con vật hết sức khôn ngoan và trung thành luôn luôn ở cạnh để hầu hạ bà.
Vừa nhốt xong bà Phi Yến, bỗng nghe tin có  quân Tây Sơn đuổi tới nơi, Ánh cùng đám cận thần lên thuyền chạy qua Phú Quốc. Theo với đám người tuôn chạy có con hắc hổ của hoàng tử Cải, nó rất mến hoàng tử. Hoàng tử Cải không thấy Mẹ, khóc lóc thảm thiết và yêu cầu cha: “Một là cho hoàng mẫu cùng theo, hai là được ở lại sống chết với mẹ” Nguyễn Ánh dứt tình cho rằng hoàng tử đồng lòng phản trắc với mẹ nên sai quẳng cậu bé vô tội xuống biển. Khi thấy hoàng tử rớt xuống biển, con hắc hổ vội vàng phóng theo, nhưng cọp đen có thể lội nước vào bãi cạn dễ dàng, còn hoàng tử Hội An mới có 8 tuổi đành phải chịu chết chìm. Xác cậu trôi dạt  vào Cỏ Ống, được dân làng an táng và lập miếu thờ. Còn con hắc hổ ngày đêm nằm bên nấm mồ của hoàng tử. Dân làng Cỏ Ống thấy con vật mà ăn ở có nghĩa như vậy nên cũng động lòng bèn họp nhau cào đất chất đá cho nấm mồ cao thêm lên rồi lập miếu thờ. Miếu ấy được gọi về sau là Miếu Cậu
Một hôm không rõ đây là tình cờ hay do một sự huyền bí nào đó mà cọp đen lại gặp vượn trắng. không biết nói, vượn bạch đã tỏ dấu và nó hướng dẫn con hắc hổ qua tận bên hòn đảo (tức Hòn Bà ngày nay) để được gặp bà Phi Yến đang bị giam cầm trong một động đá. Sau mấy chập mừng mừng tủi tủi, con hắc hổ và vượn bạch ra dấu hiệu như bảo bà cùng đi theo, bà gượng sức leo lên lưng cọp cho nó cõng đi. Hơn nửa ngày vượt suối qua đèo vất vả lắm mới qua được tới ven rừng Cỏ Ống. Khi tới trước mồ của hoàng tử, hai con vật dừng chân lại, nhìn nấm mồ mới đắp và lúc đó bà mới hiểu rằng con mình đã lìa đời. Song bà chưa rõ nguyên nhân tại sao. Dân làng Cỏ Ống hay tin kéo tới rất đông, kể cho bà nghe mọi chuyện. Sau đó, dân làng bèn xúm nhau lại làm một ngôi nhà khá đẹp ở ngay bên cạnh mả Cậu để bà được trực tiếp sớm hôm chăm sóc ngôi mộ đứa con vô phúc của mình. Thời bấy giờ có câu hát lịch sử:
                              “Gió đưa cây cải về trời
                           Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”
          Cũng trong thời gian này, Bà Phi Yến có sáng tác một bài thơ được truyền miệng cho đến hôm nay
                           “Đốt nén hương thề tạ Chúa công
                              Can vua nên nỗi tội thông đồng
                              Ngai vàng một thưở ngồi chưa vững
                              Bia đá nghìn năm vết vẫn còn
                              Máu chảy ruột mềm đau phận thiếp
                              Nồi da xáo thịt thỏa lòng ông
                              Sông sâu, núi thẳm, hoa mờ lệ
                              Đã khóc cho con lại khóc chồng”

MIẾU BÀ VÀ ĐỀN AN HẢI
          Ở gần Họng Đầm, đối diện với Hòn Bà, có ngôi Miếu Bà dựng lên  để ghi lại công người phụ nữ can đảm dám can chúa Nguyễn Ánh đừng “cõng rắn cắn gà nhà”. Sau khi Phi Yến chết, ngôi đền thờ Bà được dựng lên tại làng An Hải, gần thị trấn Côn Đảo. Việc xây ngôi đền thờ Bà tại làng An Hải có một lý do lịch sử.
          Rằm tháng 7 năm Ất Hợi  (1785) bên hương chức làng An Hải cử đại diện qua làng Cỏ Ống để thỉnh bà về dự lễ xá tội vong nhân. Buổi lễ kéo dài đến khuya , sau đó Bà nghỉ đêm trong nhà việc tại làng An Hải để ngày hôm sau về Cỏ Ống. Năm ấy Bà 24 tuổi , dung nhan còn lộng lẫy. Trong làng có tên đồ tể tên là Biện Thi đem lòng tà dục, mò vào cấm phòng nắm lấy tay Bà. Nghe tiếng Bà tri hô, dân làng kéo đến đóng gông tên Biện Thi chờ ngày xử tội. Theo luân lý xưa không đợi gì có cưỡng bức mới gọi là thất tiết, chỉ cần nắm tay, động tới tà áo coi như bị xâm phạm tiết hạnh rồi. Bà Phi Yến bấy lâu nay tuy dứt tình, vẫn giữ vẹn mình trong sạch, bởi thế bà tự mình chặt đứt cánh tay ấy và nhờ một bà lão đem chôn ở một nơi riêng biệt. Nhưng vẫn chưa thấy hết tủi nhục trong lòng Bà đã quyên sinh giữ vẹn danh tiết.
          Khi tin chẳng lành này được lan truyền, toàn thể dân làng Cỏ Ống phẩn uất chẳng khác nào lửa đổ thêm dầu; với đủ thứ gậy gộc, giáo mác, kéo sang làng An Hải buộc dân làng An Hải phải làm thế nào cho bà sống lại, bằng không họ sẽ tiêu diệt cả làng. Do sự dàn xếp khôn khéo của quan Hải Trấn, dân làng Cỏ Ống dần dần bớt cơn thịnh nộ. khi đó quan Hải Trấn đưa ra giải pháp dung hòa như sau: Làng An Hải làm heo tạ lỗi và giải nộp tên Biện Thi cho làng Cỏ Ống được toàn quyền định đoạt.
          Số phận đã an bài cho bà nằm xuống tại làng An Hải nên cũng theo ý trời để thi hài bà lại cho làng An Hải lo việc tống táng và lập miếu thờ. Hàng năm cúng bái có sự tham dự của các giới chức và dân làng Cỏ Ống.
          Sau khi tống táng thi hài bà, một cuộc hành quyết diễn ra tại làng Cỏ Ống. Tên Biện Thi phải đền tội bằng cách xử bá đao, mỗi người dân Cỏ Ống đều cầm dao xẻo một miếng thịt của tên tội phạm.
          Về sau người ta truyền rằng Bà Phi Yến và hoàng tử Hội An đã hiển thánh thường hiện hình về mách bảo cho dân làng biết điềm lành hay chuyện dữ sắp xảy ra.
          Bà đã nêu cao tấm gương ái quốc và sáng suốt nhận định được quốc vận hậu lai. Trước cảnh búa rìu sấm sé của một ông chúa độc đoán, bà vẫn cương quyết chống trả không chịu đồng lõa những hành động có tội với lịch sử. Đến như hoàng tử Hội An tuy mới vừa lên 8 tuổi cũng đã tỏ ra là đứa con chí hiếu, thà chịu chết với mẹ hiền còn hơn ham sống với một người cha độc ác. Người xưa đã có 4 câu thơ để tặng:
                           “Lòng đất chôn sâu niềm uất hận
                              Lưng trời đeo mãi vết tang thương
                              Thương người cương trực liều thân thể
                              Trách kẻ tà tây dạ khó lường” 
          Từ khi Pháp chiếm Côn Đảo lập nhà tù, thường dân bị đưa vào đất liền. Ngôi đền cổ uy nghi đã hoang tàn, xiêu vẹo. Năm 1958, những công chức trên đảo đã xin phép nhà cầm quyền, quyên góp tiền bạc và huy động sức tù xây lại ngôi đền trên vị trí của tòa miếu cổ. Bài vị thờ Bà đặt tại ngôi chính điện, với đôi câu đối:
“MẪU NGHI XƯNG HẬU ẤM CÔN BANG – THÁNH ĐẮC PHỐI THIÊN AN HẢI QUỐC”
          Hai bên tả - hữu hoàng tử Cải và quan đô đốc Ngọc Lâm, người đã can gián chúa Nguyễn xin Bà khỏi tội chết khi Ánh ghép Bà vào tội thông đồng với Tây Sơn. Trên hàng cột trước cửa đền được khắc nổi câu đối của một tù chính trị để tặng người nữ trung hào kiệt:
          “TRUNG NGHĨA GIÁN QUÂN THIÊN CỔ CHIẾU – TIẾT HẠNH QUYÊN SINH VẠN ĐẠI TRUYỀN”

SỰ TÍCH HÒN CAU VÀ BÃI ĐẦM TRẦU
          Thưở xưa Làng Cỏ Ống có chàng Trúc Văn cau  thông minh tháo vát, con ông Cau và bà Tranh, cùng lứa với cô Mai Thị Trầu, con ông Đinh, bà Bèo, một thiếu nữ duyên dáng, thạo nghiệp bút nghiêng. Trai tài gái sắc, đôi bên đem lòng cảm mến. Một lần tình cờ gặp gỡ bên dòng suối vắng, chàng trai đã mượn câu ca dao ướm thử lòng người xuân nữ: “Tiện đây anh mới hỏi nàng. Cau tươi ăn với trầu vàng xứng không?’ Người con gái vốn thông minh đã đáp lại bằng một câu ca dao hợp tình, hợp cảnh:”Mai vàng chen với trúc xanh. Duyên em sánh với tình anh tyệt vời”, Biết rõ lòng nhau, chàng Cau ngỏ lời xin cha cưới nàng làm vợ, ông Câu nghe nói rụng rời tay chân, bèn bộc lộ cho con biết, nàng Trầu chính là kết quả mối tình vụng trộm giữa ông Câu với bà Bèo thời trai trẻ. Chàng Cau bàng hoàng như sét đánh ngang tai vì trong lúc quá yêu, chàng đã trót hái “trái cấm” nơi đứa em cùng cha khác mẹ. Trúc Văn Cau ôm hận thả bè qua một thung lũng hoang vắng trên hòn đảo cách xa làng hơn 10 dặm , ẩn dật ở đấy cho đến chết. Người đời đặt tên đảo là Hòn Cau. Nơi chàng nằm xuống sau mọc lên một rừng cau xanh tốt quanh năm, mùa trái chín đỏ rực.
Nàng Trầu đau đớn, ngày ngày ra ngóng nơi vách đá khi xưa thường hò hẹn. Khi thấy thai nhi đã lớn , cũng là lúc nàng biết chuyện tình buồn của cha mẹ, và hiểu rằng chàng Cau không bao giờ về nữa. Hoàn toàn tuyệt vọng, nàng gieo mình xuống nước. Nơi nàng tự vận, nay mang tên là bãi Đầm Trầu. Cảm thương đôi bạn trẻ chết vì mối tình oan nghiệt, dân làng Cỏ Ống đã đặt câu ca: Ai về nhắn gởi ông Câu – Hòn Cau cách bãi Đầm Trầm bao xa?’ Bãi Đầm Trầu là nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Bờ cát mịn trải dài dưới chân vách đá dựng muôn hình. Trên một triền đá vươn ra tận biển nổi lên 2 tảng đá lớn, chụm đầu vào nhau như đôi bạn đang trò chơi chuyện mải mê, quên hết thời gian, năm tháng. Đặc biệt là nước biển ở đây trong và xanh hơn bất cứ nơi nào. Sắc xanh một khoảng trời, một cánh rừng đổ bóng, hòa vào màu xanh trong của biển trời nơi ấy.
Sau chuyện tình bi đát ấy xảy ra, ông Câu thấy lương tâm bị cắn rứt phải bỏ làng Cỏ Ống lánh sang một bãi bên sau núi Chúa mà ở, sau này ông qua đời người ta gọi nơi ấy là bãi Ông Câu. Đồng thời bà Bèo cũng không sống nỗi với tiếng bấc tiếng chì trong cảnh gia đình xào xáo nên bà phải bỏ nhà vô tận trong bưng để sống độc thân, nơi ấy sau này gọi là bưng Bà Bèo. Về phần ông Đinh cũng chẳng kém gì. Quá buồn do chuyện vợ con, ông vào tu trong một hốc núi bên cạnh con đường qua nhà người anh cả là Ông Cường. Do đó sau này mới có tên là bãi ông Cường và hốc ông Đinh.
Riêng bà Tranh (vợ ông Câu) rất thương chồng và nhớ con song không tội gì phải bỏ đi đâu. Bà vẫn ở trong ngôi nhà cũ. Vì không có người thừa tự sau khi bà mất, dân trong ấp được chia nhau thừa hưởng hoa lợi trong khu vườn cây trái của bà. Để nhớ ơn bà, dân trong ấp lấy tên bà đặt tên ấp. Từ đó, nơi đây được mệnh danh là ấp Trảng Tranh. Đến ngày nay dân làng Cỏ Ống vẫn còn truyền miệng câu thơ diễn tả nỗi niềm bi đát của mối tình ngang trái giữa chàng Cau và nàng Trầu
                           “Đi đâu mà chẳng thấy về
                              Hay là quần tía dựa kề áo nâu
                              Ai về nhắn với ông Câu
                              Hòn Cau cách bãi Đầm Trầu bao xa”
HÒN TRÁC – HÒN TÀI
          Phía trước thị trấn Côn Đảo, từ mũi Cá Mập, một chuỗi đảo nhỏ nằm gần nhau, mang tên Hòn Trác lớn, hòn Trác nhỏ, hòn Tài lớn, hòn Tài nhỏ. Người xưa gọi nhóm đảo này là hòn huynh đệ. Chuyện kể rằng có 2 anh em sinh đôi là Đặng Phong Tài và Đặng Trác Vân, giống nhau như đúc. Đặng Phong Tài bị biệt xứ ra đảo từ thời Minh Mạng, được vị hương cả làng An Hải mến mộ tài đức, gả cho người con gái yêu là Đào Minh Nguyệt. Hai vợ chồng sống rất hạnh phúc trong ấp An Hội. Nàng Minh Nguyệt có nhan sắc, nết na, trai làng thường gọi là nàng Tiên An Hội.
          Ít lâu sau, Đặng Trác Vân, ngườ em sinh đôi với Phong Tài cũng bị biệt xứ ra đảo, được người anh và chị dâu đón về ở cùng nhà. Lạ thay 2 anh em giống nhau như hai giọt nước. Tình cờ, một lần Trác Vân đi đốn củi về sớm, người chị dâu ngỡ là chồng về, săn sóc ân cần và tặng một nụ hôn nồng ấm. Trác Vân đứng nghiêm như pho tượng một hồi rồi xin chị thứ lỗi. Nàng tiên An Hội ngẩn người bối rối và xin người em giữ kín sự nhầm lẫn này.
          Oái ăm thay, một lần khác, Phong Tài có việc đi qua làng Cỏ Ống, không hiểu vô tình hay hữu ý mà nàng Tiên An Hội lại đặt nhầm nụ hôn tình tứ cho người em. Nhưng giống như lần trước Trác Vân sụp lạy chị , xin giữ trọn đạo đệ huynh..
          E ngại ẩn tình của chị dâu, Trác Vân đã bỏ nhà, kết bè qua một hòn đảo nhỏ cốt ngăn ngừa phút giây sa ngã, trái đạo luân thường. Khi Phong Tài trở về, biết chuyện bèn lặn lội đi tìm em. Hai anh em không gặp được nhau và mỗi người đã bỏ mình trên một hòn đảo, hai hòn đảo ấy sau được mang tên hòn Trác – hòn Tài, còn gọi là Hòn Huynh Đệ.
Thảm thương thay cho số phận của nàng Minh Nguyệt giữa lúc tình nồng duyên thắm nàng phải sống với cuộc đời cô độc quạnh hiu, trong những chuỗi ngày sầu thương chiếc bóng còn gì não lòng hơn cái tuổi xuân tàn tạ mỏi mòn khiến nàng:
                              Thổn thức tình xuân, vồ chín khúc
                              Ngẩn ngơ hồn điệp xót năm canh
                              Khóc mưa thu tiếng cuốc mỏi mòn…
                              Sầu nắng hạ mình ve khô héo

Dân gian còn lưu truyền câu ca về mối tình éo le và tấm lòng kết nghĩa giữa Minh Nguyệt – Phong Tài và TrácVân:
                                        Ai qua hòn Trác hòn Tài
                                        Cho em xin gởi một vài câu thơ:
                                        Đêm khuya gió lạnh sao mờ
                                        Trăng khuya chênh chếch bóng vẫn chờ đợi mây
                                        Bao giờ núi Chúa hết cây
                                        Sông mê hết nước, dạ này hết thương
          Xuyên qua cuộc tình bộ ba của hai anh em nhà học Đặng và cô Đào Minh Nguyệt ta thấy: trong tên họ ông Tài có chữ Phong (là gió) đệm ở giữa thành ra Đặng Phong Tài. Kế đó tên cậu Trác có chữ Vân (là mây) nối bên sau gọi là Đặng Trác Vân. Tên vợ của ông Tài là Đào Minh Nguyệt (có nghĩa là mảnh trăng trong chiếu tỏa khắp phương trời)..

NHÀ TÙ CÔN ĐẢO

         
Nằm trên trục giao lưu Đông – Tây, tàu buôn các nước Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp… đã viếng thăm Côn Đảo từ thế kỷ XIII. Hai công ty Đông Ấn của Anh và của Pháp nhiều lần cho người lên đảo nghiên cứu địa thế, vẽ bản đồ. Năm 1702, Allen Catchpote, giám đốc công ty Đông Ấn của Anh đích thân chỉ huy cuộc đổ quân chiếm Côn Đảo. Hắn mộ lính người Macasca (thổ dân đảo Sulavedi theca Indosinea) xây pháo đài và canh giữ. Chúa Nguyễn đưa người ra đảo, làm kế trá hàng rồi cùng đội lính Macasca làm binh biến, đánh đuổi thực dân Anh thu lại chủ quyền, lãnh thổ xứ Đàng Trong  (1705).
 Thất bại của người Anh tiếp tục nuôi dưỡng cho ý đồ của thực dân Pháp. Ngày 28 tháng 11 năm 1861, trung úy Lespès đã được lệnh của đô đốc Bonard, đưa chiến hạm Nogagaray tới đánh chiếm Côn Đảo. Nhà tù Côn Đảo được thiết lập theo nghị định 1/12/1862 của đô đốc Bonard để giam giữ những tội nhân mang án từ 1 đến 10 năm. Phó trạm trưởng Félix Roussel được chỉ định làm chỉ huy trưởng quần đảo kiêm quản đốc đầu tiên của nhà tù Côn Đảo.
Ngày 31/01/1873 thống đốc Nam Kỳ Dupré ra nghị định ban hành quy chế riêng cho đề lao Côn Đảo. Sau nhiều lần thi hành bổ sung và sửa đổi, bản quy chế hoàn chỉnh nhất, gồm 20 chương, 109 điều ban hành vào ngày 17/05/1916, được áp dụng cho đến ngày cáo chung của thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương.
Trong hơn nửa thế kỷ, nhà tù Côn Đảo chỉ có 1 trại giam (Bagne No.1) với nguồn tài chính bổ sung từ ngân sách Liên Bang (Đông Dương), Banh II được khở công từ 1917 và đưa vào sử dụng 1928. Banh III tiếp tục được xây dựng  và sử dụng 1939. Banh phụ của Banh III cùng hai dãy chuồng cọp sử dụng từ 1944.
Năm 1955, thiếu tá Aloise Blanck bàn giao lại nhà tù này cho ngụy quyền Sài Gòn, chấm dứt gần một thế kỷ tội ác của thực dân Pháp trên quần đảo. Trong 20 năm 1954 – 1975), Mỹ Ngụy đã tăng quy mô từ 4 trại lên 8 trại. Trại V xây dựng 1962. Trại VI, trại VII và trại VIII xây dựng gần như cùng một lúc, vào năm 1968, hoàn thành cơ bản cuối năm 1970. Ba trại này được ngân sách MACCORD (chương trình viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ) chi tiền, chuyên gia xây cất nhà tù của Mỹ thiết kế và hãng thầu Mỹ RMK – BRJ xây cất. Trại IX, trại X cũng đã được đổ móng, đúc cột rồi bỏ dở khi hãng RMK – BRJ rút khỏi Việt Nam (1972).

NHÀ CHÚA ĐẢO


Được xây dựng trong một khuôn viên rộng gần 2ha, ở khu vực trung tâm thị trấn, cổng nhìn thẳng ra Cầu Tàu. Đây là nơi ở và làm việc của 53 đời chúa đảo. Đối với người tù cũng như toàn bộ viên chức , giám đốc (có lúc gọi là quản đốc) thật sự là chúa đảo. Theo quy chế giám đốc “toàn quyền đối với các nhân viên chức trách và tù nhân trên đảo; đích thân trông coi việc làm của tù nhân, chịu trách nhiệm về những biện pháp cần thiết để đảm bảo an ninh các trại giam và đưa tù nhân vào vòng kỷ luật”
Vì thế tù nhân thường gọi giám đốc là Ông Lớn, Chúa Đảo; gọi nơi ở của giám đốc là Dinh Ông Lớn, nhà Chúa Đảo – nơi tập trung cao nhất quyền lực trên đảo cả về hành chính, tư pháp và quân sự. Đồng thời đây cũng là nơi xuất phát âm mưu thủ đoạn cai trị tù nhân, trung tâm chỉ huy các cuộc đàn áp quy mô toàn đảo. Tên chúa đảo đầu tiên là tên Félix Rousseel, trung úy, phó hạm trưởng hải quân Pháp.
Có nhiều tên chúa đảo mà sự tàn bạo của chúng  đồng nghĩa với chế độ giết người ở đây. Andouard là một trong số đó,
Báo Chí Nam Kỳ lúc đó đã đưa tít đậm Tên đao phủ ở Côn Lôn với những lời xỉ vả thậm tệ vì chính hắn đã xả súng máy giết hại 83 người tù chung thân tại góc sân Banh I (14/02/1918), trong số đó có những ngưởi tù không dính dáng gì đến cuộc nổi dậy, trong tay không có một tấc vũ khí.
Người kế tục được nhiều chất tàn bạo của những tên chúa ngục kiểu  Andouard lả Bouvier, làm chúa đảo trong 15 năm (1927 – 1942). Trong vòng 5 năm (1930 – 1934) chế độ khủng bố thởi Bouvier đã giết hại 802 người tù. Báo Thần Trung hồi ấy đã gọi Côn Lôn là “Địa ngục trền gian” dưới “chế độ giết người Bouvier”
Nguyễn Văn Vệ  là tên chúa ngục  điển hình chi sự tàn bạo và thâm độc thời Mỹ ngụy (1965 – 1974). Trong ký ức của hàng ngàn tù nhân. Nguyễn Văn Vệ là “con hùm xám” là “siêu đẳng” trong nghề rị tù. Vệ từng ngự trị chín năm, 2 nhiệm kỳ tại nhà tù Côn Đảo, thiết lập độ kỷ luật nghiệt ngã nhất ở Chuồng Cọp: sào nhọn bị đồng, vôi bột, gậy gộc và đạo quân trật tự an ninhdo Vệ tổ chứx đã gây hiều tội ác man rợ mà vụ “Chuồng Cọp Côn Đảo” năm 1970 đã lảm chấn động lương tri loài người.
Xét đến cùng, mỗi đời chúa ngục chỉ là những tên  tay sai trung thành với mức độ khác nhau của bọn thực dân, đế quốc. Với bản năng riêng, mỗi tên lại có cách riêng để ghi dấu ấn tội ác đối với dân tộc ta, trong hơn 1 thế kỷ đau thương khi chúng dựng lên “Địa ngục trần gian” trên Côn Đảo. Nhà chúa đảo là nơi chứng kiến những thủ đoạn cai trị cùng tội ác man rợ của chúng.

CẦU TÀU
Cầu Tàu được khởi công xây dựng  năm 1873, với phác thảo dài 107m, tư2 mép lộ trước cổng dinh chúa đảo lao thẳng ra vịnh Côn Sơn. Có người từng gọi Cầu Tàu bằng danh số 871; 914, 915 để tưởng nhớ số người đã chết trong lúc xây dựng cầu tàu. Những con số đó ít nhiều mang tính ước lệ.
Dấu ấn sâu lắng nhất đọng lại di tích lịch sử này trong hơn 1 thế kỷ qua chính là những phiến đá ngổn ngang, sắp lớp. Những tảng đá lớn hàng thước khối, nặng nhiều tấn kia đã làm kiệt quệ và đè nát bao nhiêu thân tù khi họ xeo chúng tù núi Chúa về đây. Không xeo được thì chết vì đòn, xeo được thì chết vì kiệt sức. Cái thời đau thương ấy như còn âm vang trong từng phiến đá và câu ca trường hận của tù nhân: “Côn Lôn ơi, viên đá mạng người…”
Không ai biết một cách chính xác bao nhiêu người bị núi lở, đá đè, hoặc chết vì kiệt sức đòn roi khi chuyển đá, khi làm Cầu Tàu và kè đá dọc con đường  ven biển. Cầu Tàu là nơi ghi dấu bước chân lưu đày đầu tiên của hàng chục vạn người tù trên hòn đảo này, với tất cả nỗi tủi nhục của trận đòn phủ đầu từ Cầu Tàu về trại giam. Hàng vạn người chỉ một lần đặt chân lên đây rồi vĩnh viễn nằm lại Hàng Keo, Hàng Dương, Cỏ Ống, Hòn Cau…
Cầu Tàu còn là một đầu mối liên lạc quan trọng giũa tù chính trị Côn Đảo với Đảng Xã Hội, Đảng Cộng Sản Pháp với Xứ Ủy Nam Kỳ, Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Nam Bộ và Thành Ủy Sài Gòn – Gia Định. Sách lý luận, kinh điển Mác – Lênin, sách văn học, báo chí tiến bộ, nghị quyết của Quốc Tế Cộng Sản của Trung Ương Đảng ta cùng thư từ, chỉ thị của xứ ủy…đã đến với người tù qua Cầu Tàu này.
Cầu Tàu từng rợp bóng cờ đỏ sao vàng những ngày Cách Mạng Tháng 8 (1945) thành công ở Côn Đảo. Trên 2.000 tù chính trị đã từ đây trở về đất liền tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ và anh dũng. Một số người đã trở thành những đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà Nước ta trong nhiều năm qua. Cuối năm 1954, thực dân Pháp cũng phải đưa gần 600 tù binh và trên 1.000 tù án qua Cầu Tàu về trao trả lại cho chính phủ Hồ Chí Minh. Ngày 1/5/1975 tù chính trị Côn Đảo đã chớp thời cơ, nổi dậy làm chủ hoàn toàn Côn Đảo.
Ngày 4/5/1975 trên chyến tàu đầu tiên ra giải phóng Côn Đảo, 500 tấm ảnh Bác Hồ in lụa đã chuyển tới Cầu Tàu và được những người tù trang trọng rước về từng trại. Ít ngày sau, từng đoàn tù lần lượt tập trung ra Cầu Tàu để xuống tàu về đất liền, chấm dứt vĩnh viễn hơn một thế kỷ :Địa ngục trần gian” nơi Côn Đảo.

CẦU MA THIÊN LÃNH
Khoảng năm 1930, thực dân pháp mở con đường từ ngã ba núi Chúa qua đèo Ông Đụng để đến sở Ông Câu. Sở Ông Câu nằm phía sau núi Chúa từ những năm 1930 thực dân Pháp bắt tù nhân leo lên những triền núi cao, đốn cây lớn rồi thả xuống mé biển theo những đường mòn. Nhiều người đã bị cây đè chết hoặc nát chân nát tay vì không tránh kịp những cây gỗ lớn từ trên núi lao xuống.    
Khi mở con đường nay bọn chúa ngục bắt tù nhân vác đá xây trên đèo Ông Đụng một cây cầu. Do địa thế núi cheo leo hiểm trở, tù nhân ăn uống thiếu thốn đói khát phải khiêng đá xây mố cầu bị chết hại trước sau tới 356 người mà vẫn chưa làm xong nỗi. Cách Mạng Tháng Tám thành công công trình bị bỏ dỡ dang (2 mố cầu).
Cái tên Ma Thiên Lãnh để gọi hai mố cầu đắp dang dở bằng máu sương của 356 con người, có lẻ do địa thế núi hiểm ác nước suối lại rất độc, quá trình tù nhân làm khổ sai còn bị đá đè cây đổ..v..v.. từ đó tù nhân mới lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều Tiên địa thế hiểm ác khó lên xuống, phỏng theo truyện tàu:” Tiết Nhơn Quí Chinh Đông” xưa đặt tên cho cầu này.
Thời ấy để tố cáo chế độ thực dân pháp đày ãi tù nhân làm khổ sai cực kỳ dã mang tù nhân còn sáng tác bài hát: Cầu Ma Thiên Lãnh.
   “Ai bước qua, ai bước qua Cầu Ma Thiên Lãnh
Hãy dừng chân ngắm cảnh quốc hờn
Do quân thù tàn bạo gây nên
Ai đã trong mà lòng không hờn
Ai nghe đến mà lòng không căm giặc pháp
Quân pháp kia, quân pháp kia là loài tham tàn.
Gây oán thù vạn thuở khôn nguôi
Mau đứng lên mau đứng lên người dân yêu nước.
Giết thù chung dắt dìu giống nòi
Ra khỏi cảnh bùn lây điêu linh
Bao máu sương bao máu sương trong lao tù còn gây oán hờn, gây mối thù vạn thuở khôn nguôi.”

DI TÍCH BIỆT LẬP CHUỒNG BÒ
Chuồng bò là một sở tù nuôi bò thịt, bò sữa, dê, ngựa, heo, gà vịt, bồ câu, có lúc kiêm việc làm rẫy với tên gọi kép mà trước đây thường gọi là sở rẫy – chuồng bò, sở củi – chuồng bò. Nhưng người ta gọi tắt là Chuồng Bò.
Chuồng Bò có một trại giam phụ, xây khá chắc chắn vào năm 1930, trên khu đất rộng 4110 m2 làm nơi tạm giam số tù nhân làm ở sở này. Cạnh đó còn có 24 hộc để nuôi chứa heo nên có người còn gọi là Chuồng Heo, đối diện có hai chuồng nuôi bò cùng với một hầm chứa phân và nước thải từ chuồng nuôi bò cũng được xây khá kiên cố.
Sang thời Mỹ Ngụy khoảng cuối năm 1969 địch đã đưa tù chính trị chống chào cờ bị còng xiềng cầm cố lâu ngày, bị teo cơ bại liệt cả hai chân về giam ở đây.
Sau khi chuồng cọp bị phát hiện Chuồng Bò được gấp rút sửa chửa dẹp bỏ 24 hộc chứa heo và xây dựng lại gồm 3 khu A< B< C, tổng cộng có 33 phòng biệt giam.
Chuồng bò lúc bấy giờ là một chi nhánh trực thuộc trại IV biệt lập dưới quyền của tên giám thị ác ông Lê Văn Khương phụ trách.
Phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường, lưc lượng tù bại liệt tiếp tục đấu tranh, chống chào cờ, chống nội quy khắc nghiệt của nhà tù. Họ đã bị đánh đập bỏ đói bỏ khát và không được ăn rau trong nhiều tháng.
Từ năm 1973 Chuồng Bò là văn phòng của tiểu ban điều tra khai thác thuộc ban chuyên môn những người tù bị lộ mặt trong hoạt động đấu tranh bị đưa về đây để khai thác. Ban chuyên môn áp dụng nhiều hình thức điều tra tàn bạo như : đánh đập bằng củi giòn, nẹp hai thanh tre vào ống chân. ..v..v… nhiều tù nhân đã bị bại liệt tàn phế bởi đoàn tra tấn và chế độ đày ải dã mang ở chuồng bò. Đây cũng là trại giam được mở cửa giải phóng sau cùng trong ngày 1/5/1975 (08h30 sáng)
HẦM PHÂN BÒ : theo lời kể của một số cựu tù chính trị côn đảo thời mỹ ngụy : “ngày giải phóng nhà tù côn đảo 1/5/1975 đã phát hiện còn hai người tù bị phạt ngâm mình trong hầm phân” sự kiện này đã được ban quản lý di tích lịch sử cách mạng côn đảo và các nhà nghiên cứu lịch sử nhà tù côn đảo tiến hành sưu tầm tư liệu và nhân chứng cũng như bằng chứng cụ thể.

DI TÍCH : TRẠI VII” CHUỒNG CỌP KIỂU MỸ
Tổng diện tích :25.788mtên gọi đầu tiên là trại VII, sau đó gọi là Trại Phú Bình. bao gồm 04 khu AB,CD,EF, GH.mỗi khu có hai dãy, mỗi dãy có 48 phòng bịêt lập, trên có song sắt tương tự như chuồng cọp pháp nhưng không có hành lang bên trên thay vào đó là mái tôn rất thấp, trời hắt xuống như thêu như đốt .dưới thì không có xây bệ ,tù nhân nằm dưới nền nhà hứng chịu khí ẩm uớt, khí đất xông lên khi chuyển về khuya tù nhân phải tiểu tiện vào thùng gỗ, mỗi khi tù nhân đấu tranh chúng phạt không cho đổ thùng vệ sinh ,03 hôm-5 hôm, một tuần lễ hoặc lâu hơn nữa…phân và nước tiểu bê bết trên mình của 8-10 người tù trong một vùng biệt giam chưa đuợc 5m2 khi ấy nhà giam đã biến thành nhà cầu sống trong cảnh ấy ngày này qua ngày khác thì chẳng khác nào sống trong địa ngục chưa kể buổi trưa nắng nóng trêu đốt cùng với mùi ô uế xông lên ,bọn phục vụ mở cánh cửa sắt ra kiểm tra rồi đóng dập lại thật mạnh, tiếng kêu dội lên đinh tai nhức óc khi chúng lần lượt kiểm tra 48 phòng giam trong một dãy và liên tiếp 8 dãy với 384 lần dội vào đầu, vào lồng ngực của tù nhân.
Đúng là một trại giam điển hình kiểu mỹ, do chuyên gia mỹ thiết kế thầu Mỹ xây dựng (hãng thầu RMK) bằng đôla Mỹ viện trợ. Đây là trại giam khắc nghiệt nhất trong giai đoạn cuối cùng của nhà ngục này Mỹ ngụy dùng cả yếu tố bất lợi của thiên nhiên vào việt đày ải con người. Chưa cần đến đòn roi chuồng cọp mỹ đã hành hạ người tù rất tinh vi, chết dần chết mòn bởi lối kiến trúc Mỹ nên còn được gọi là “chuồng cọp kiểu Mỹ” cùng với trại VI khu B, trại VII là nơi tập trung số tù chính trị chống đối, trở thành trung tâm phong trào đấu tranh của tù chính trị côn đảo trong giai đoạn này.
Đây là nơi khở đầu và trung tâm chỉ đạo cuộc nổi dậy giải phóng côn đảo, khi nghe tin tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng Ngụy Quân Ngụy Quyền Côn Đảo hoang mang tháo chạy, những người tù ở trại VII đã quyết định hành động chóp thời cơ giải phóng vào lúc1h00 sáng ngày 1/5/1975 tù nhân ở trại phú bình đã hoàn toàn giải phóng, đảo ủy lâm thời được thành lập tại đây ngay sau đó và lần lượt giải phóng các trại. Đến 8h30 ngày 1/5/1975 tù nhân tù chính trị đã hoàn toàn giải phóng côn đảo chấm dứt cảnh địa ngục trần gian sau 113 năm từ năm (1862 – 1975).

DI TÍCH BANH MỘT TRẠI PHÚ HẢI:
Trung tâm cải huấn phú hải – trại phú hải, đây là một trại giám lớn và cổ nhất của hệ thống nhà tù Côn Đảo do Thực Dân Pháp xây dựng từ những năm cuối thế kỷ 19.
Tên gọi đầu tiên là Banh I, sang thời mỹ ngụy gọi là Lao I, sau đó đổi tên là trại cộng hòa, trại hai, và tên gọi cuối cùng là trại phú hải tên gọi này được sử dụng từ tháng 11/1974.
Sau hiệp định Paris ký kết trong âm mưu ém dấu tù chính trị không trao trả, địch cho đổi tên gọi tất cả các trại giam ở côn đảo, mỗi trại đều được ghép với chử phú và hệ thống nhà tù côn đảo trực thuộc TTCH Phú Hải.
Ngày 28/11/1861, thực dân pháp chiếm quần đảo Côn Đảo, sau đó hai tháng Thống Đốc Bonard ở nam kỳ ban hành nghị định thành lập khu giam cầm tại Côn Đảo, lập tức ở vị trì này họ cho xây lên một dãy nhà ngục nhưng tạm thời bằng vách đất, mái tranh và 50 tù nhân có án từ một đến mười năm bị đưa ra côn đảo giam vào đây vào đầu tháng 3/1862. sau đó ba tháng vào đêm 28/6/1862 50 tù nhân đã kết hợp với hơn 100 quan lính triều nguyễn làm cuộc khởi nghĩa nổi dậy đốt phá trại giam, đánh đuổi khoảng một chục tên cai ngục pháp phải bỏ chạy xuống một chiếc thuyền nhỏ về nước.
Nhưng sau cuộc khởi nghĩa số nghĩa binh này không tìm được phương tiện về đất liền nên hai tuần lễ sau thực dân Pháp phái một thông hạm Norazaray đến Côn Đảo tàn sát số nghĩa binh, họ giết chết hơn 100 người và bắt sống 20 tù nhân. Họ buộc 20 tù nhân này phải mang hơn 100 xác chết lên trên một đồi cát chôn chung một mồ, sau đó họ chôn sống luôn 20 tù nhân ở đó (di tích bãi sọ người).
Sau đó thực dân pháp có kế hoạch cho xây dựng một nhà ngục kiên cố với tổng diện tích là 12015 m2 có tường dày bao bọc bên ngoài.
Năm 1896 đã hoàn tất bao gồm :hai dãy khám giam được xây đối diện nhau, mỗi dãy 5 khám (đánh số từ trái sang phải 1-10), phía cuối sân, nối qua hai dãy khám có 20 hầm đá (còn gọi là xà lim) cuối dãy khám giam bên trái còn có một phòng giam “ tù đặc biệt”. Kế đó là “hầm xay lúa”, vừa là nơi khổ sai xay lúa, vừa là nơi đày ải trừng phạt ngiệt ngã đối với tù nhân. Ở góc cuối bên phải còn có một khu đất trống dùng để phạt tù nhân khổ sai đập đá. Đây cũng là nơi dành cho những tù nhân bị ghép vào thành phần nguy hiểm, có thể vượt ngục bất cứ lúc nào vì thế nên họ không dám cho đi làm khổ sai ở các sở tù bên ngoài.
Bình quân ở trên đảo có khoảng 18 sở tù khổ sai, háng ngày họ đưa tù nhân đi làm các công việc khổ sai ở các sở này, chiều về đến trước cửa phòng giam tù nhân phải cởi hết quần, áo cho cai ngục khám xét, cứ trần truồng như thế nằm ngủ. Nơi đây còn là hiện thân của “địa ngục trần gian” những công việc khổ sai như: xuống biển mò lấy san hô mang lên nung thành vôi bột, đến việc lên rừng khai thác đá, khéo gỗ, dọn tàu… còn rùng rợn hơn cả cái chết.
Sang thời Mỹ Ngụy để đánh lừa dư luận trong và ngòai nước, Mỹ Ngụy cho xây dựng: nhà nguyện, giảng đường, câu lạc bộ, nhà ăn, phòng hớt tóc….và cho chuyển “hầm xay lúa” thành bệnh xá của trại giam. Sân trại còn được trồng hoa kiểng như một công viên. Đây là một công trình vừa mang tính hình thức để đối phó với dư luận vừa dùng để mua chuộc dụ dỗ tù chính trị ly khai, tố cộng…
Có thể nói, tất cả các lớp tù từ thưở Cần Vương, Văn Thân chống pháp, đến nhiều chiến sỹ cách mạng việt nam, tiếp đến thế hệ nam nữ sinh viên học sinh xuống đường biểu tình chống mỹ –thiệu đều trải qua những năm tháng tù đày khốc liệt tại đây.
Phòng 6-còn được gọi là phòng chết điển hình: thời mỹ –ngụy, từ 1957 đây là nơi khởi đầu cuộc chiến tranh chống ly khai đảng cộng sản của tù chính trị câu lưu(không án);ngọn cờ đầu của phong trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính trị côn đảo. Địch đã thực hiện âm mưu phân hóa giữa cộng sản và kháng chiến nhưng âm mưu đó thất bại nên họ đã ra sức đàn áp dã man những người tù chính trị, do đó mà người tù hy sinh ở đây rất nhiều. Chính vì vậy, phòng giam này vào thời mỹ ngụy được gọi là “phòng chết điển hình”
Năm 1995, để kỷ niệm 20 năm ngày Côn Đảo giải phóng, bộ văn hóa thông tin giao cho công ty mỹ thuật TW phục chế lại mô hình tượng nhằm tái hiện lại cảnh sống và sinh hoạt của tù nhân (thời thực dân pháp) trong 24 tiếng đồng hồ. Phòng giam lúc bấy giờ giam trung bình từ 80-120 tù nhân, nhưng sang thời mỹ ngụy số tù chính trị bị đày ra Côn Đảo ngày càng nhiều nên số lượng tù nhân tăng lên 100-150 người, lúc cao điểm lên đến 180 người. Những lúc ấy tù nhân nằm trên bệ không đủ phải nằm trên nền nhà. Khắc nghiệt nhất là lúc phạt cấm cố (xiềng chân) người tù nằm ở dưới bệ phải chịu cảnh treo chân lên thanh sắt. Thêm nữa là khi bị xiềng chân cấm cố tù nhân phải đi vệ sinh tại chổ vào một thùng gổ. Trên mỗi bệ ximăng có bố trí thùng gỗ để người tù đi vệ sinh và đây cũng là điều rất khắc nghiệt, bởi vì người nào có nhu cầu đi vệ sinh phải đánh thức những người bạn tù thức dậy hết để chuyển thùng gỗ này lần lượt đến tay họ do đó mà suốt đêm tù nhân khó có thể ngủ yên giấc (thường là mỗi bệ chỉ bố trí có một thùng)
Phòng số 7: đây là nơi chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên trong nhà tù côn đảo ra đời cuối năm 1932 tại banh I, sau phát triển thành Đảng ủy Côn Đảo,lãnh đạo cuộc đấu tranh của tù nhân với sự đóng góp xuất sắc của đồng chí Nguyễn Hới, Tôn Đức Thắng, Ngô Gia Tự, Trần Quan Tặng, Nguyễn Chí Diểu, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh…..
Banh I cũng là nơi dnhững người cộng sản mở lớp học văn hóa, lý luận, chính trị. Đặc biệt là khóa học chủ nghĩa lênin theo chương trình huấn luyện của đại học phương đông(liên xô) do giáo sư trần văn giàu phụ trách. Tờ báo Tiến Lên (tiếng nói của hội tù nhân) và tờ ý kiến chung (cơ quan lý luận của tù chính trị)từ cuối năm 1935 cũng chuyển từ banh II về banh I.
*Phòng 9: Nơi đây từng giam giữ đồng chí Tôn Đức Thắng, Võ Sỹ, Võ Thúc Đồng…. Và cũng là nơi biên soạn Tạp Chí “Ý Kiến Chung”. Ngày đầu tiên bác Tôn Đức Thắng bị đày ra côn đảo bị đưa vào khám giam này(2/7/1930).
*Phòng 10: Thời Mỹ Ngụy vào năm 1958 trong đợt chống học tập tố cộng địch đã đàn áp dã man 175 người tù chính trị trong âm mưu phân hóa giữa cộng sản và kháng chiến nhưng địch đã không thực hiện được.
*Phòng giam tù đặc biệt: Ngoài 10 phòng giam ra còn có 1 phòng giam dành cho tù đặc biệt nằm phía sau câu lạc bộ. Thời pháp đã dùng nơi đây giam giữ những người làm khổ sai hàng ngày ở hầm sai lúa trong đó có Bác Tôn, Phạm Hùng,Lê Văn Lương, Ngô Gia Tự……sau đó (1946)thực dân pháp giam giữ 46 người tù có án tử hình đầu tiên.
Đến năm 1957, Mỹ Ngụy đã đưa ra 41 phụ nữ chống ly khai, tố cộng (đã có thành tích từ các nhà lao ở đất liền đưa ra côn đảo.
Sau đó năm 1958 – 1960, giam giữ đàn áp dã man cán bộ cốt cán chống học tập tố cộng ly khai Đảng Cộng Sản.
*Hầm xay lúa: Thời thực dân pháp đây là một căn phòng xây tường đá bao vây, ở trên có một lớp trần làm bằng vải đen, bao tời,… và chỉ có một cửa đi thông qua phòng giam đặc biệt (không có cửa thông gió như hiện nay) trong căn nhà bịt kín này được bố trí 5 cối xay lúa. Cối xay được làm bằng vỏ thùng rượu vang cưa đôi ra và lèn đất sét bên trong nên rất nặng mỗi cối phải có từ 4 đến 6 người mới kéo nổi. Từ công việc kéo cối xay, vác lúa gạo…..người tù làm khổ sai ở đây còn phải chịu thêm cực hình nữa là hai người bị xích chung một sợi dây xích có lê theo một quả tạ (quả tạ nặng trung bình từ 3-7kg). Có thể nói đây là nhà tù trong nhà tù.
Sang thời Mỹ Ngụy, để đánh lừa dư luận địch cho dẹp cối xay và chuyển thành bệnh xá. Bệnh xá ở nhà tù côn đảo được xem như một nhà xác. Tù nhân được chuyển đến đây để nằm chờ chết. Chưa kể trong chiến dịch đàn áp tù nhân chống ly khai địch dùng bệnh xá để mua chuộc dụ dỗ người tù trong cơn hấp hối. Một cái lắc đầu (không chấp nhận ly khai) lập tức mũi thuốc bơm bỏ xuống đất. Hoặc phát thuốc súng không đúng bệnh, bất kể bệnh gì cũng phát một loại thuốc- thuốc ký ninh (thuốc trị bệnh sốt rét).
Khu xà lim: xà lim còn gọi là hầm đá, gồm có 20 hầm đá địch sử dụng những xà lim này để biệt lập, cấm cố và đày ảinhững người tù bị ghép vào thành phần huy hiểm, ngoan cố, chống đối...hay những người vượt ngục bị bắt lại. Họ bị chốt chặt chân vào còng suốt ngày đêm, kể cả lúc ăn cơm và đi vệ sinh cho đến khi nào mãn hạn nằm hầm mới được cởi bỏ chiếc cùm ra (nếu nặng thì chốt cả hai chân). Trong 10 ngày đầu bị phạt ở xà lim người tù phải ăn cơm nhạt, uống nước lã (mặc dù thức ăn ở nhà tù Côn Đảo chỉ là khô, tương, mắm...để lâu ngày bị mục đắng, ôi chua...)
Hầm xây bằng đá cao hơn 2m, trần xây cuốn, ở đây nhà tù có cảm giác như bị nhốt vào nhà mồ, vào mùa nắng nóng bức thì hơi nóng hầm hập suốt ngày, mùa đông hơi đá toả ra lạnh thấu xương, cửa xà lim bằng gỗ or sắt dày, đóng vào là kính như hủ nút, chỉ được hé vội một chút khi cai ngục mang cơm đến, hay dội cho một thùng nước vào buổi sáng cuối tuần (gọi là được tắm),người tù bị nhốt vào xà lim ít lâu là người héo quắt lại “mắt mờ, bại liệt”.
Xà lim đôi: bên cạnh những xà lim đơn còn có những xà lim đôi, ở đây có thể giam một lúc 10-30 người, cốt để cho người tù nóng bức, ngột ngạt vì thiếu không khí...làm kiệt sức và hao mòn sinh lực tù nhân, mặt khác muốn đánh vào tâm lý người tù bị cấm cố ở xà lim đơn, sẽ cảm thấy cô độc, không có bạn bè, đồng đội để chia sẻ, tâm sự hay chăm sóc như thế ý chí họ sẽ bị rạn nứt...
Xà lim số 9: còn lưu lại bốn câu thơ  của người tù tên Huỳnh Văn Chẩn bị đưa vào hầm đá ngày 14/12/1958.
“Người cách mạng chịu nhiều gian khổ
Dẫu gian lao nhưng vẫn coi thường
Bền chí vững lập trường
Vượt qua gian khó trên đường quang vinh”
Nhà ăn: đây cũng là hình thức trá hình của mỹ ngụy. Từ khi xây dựng nhà ăn này (1963) cho đến ngày nhà tù được giải phóng, không một người tù nào được đến đây ăn cơm( kể cả tù thường phạm).
Khu đập đá : các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn...đã từng khổ sai đập đá tại đây.
Năm 1918 ông tú Phạm Cao Chẩm một nhân sĩ yêu nước ở Quảng Ngãi và người thanh niên Nguyễn Trọng Thạc, một tướng tài, con trai của cụ Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh nghĩa quân bãi sậy đã hi sinh tại đây cùng 81 người tù khổ sai trong cuộc nổi dậy ngày mồng 4 tết (mậu ngọ), dưới làn đạn súng máy của tên bạo chúa Andouard chỉ huy bắn giết.
Đây cũng là nơi chiến sỹ yêu nước phan chu trinh sáng tác bài thơ Đập Đá Côn Lôn (được đưa vào văn học VN).
Làm trai đứng giữa đất côn lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập vỡ mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con non.
Sang thời mỹ nguỵ nơi đây được chuyển làm trại mộc.
*Phòng số 3: thời mỹ ngụy đã giam cầm lần lược 250 tù tử hình (theo luật 10/59 cũa diệm ban hành). Đây cũng là nơi xảy ra cuộc vượt ngục hiếm thấy ở Nhà Tù Côn Đảo.
Vào đêm 12/10/1966, đồng chí Lê Văn Việt (tên trong tù là Nguyễn Văn Hai) chiến sĩ biệt động sài gòn, người đã từng làm chân động thủ đô sài gòn trong trận đánh sập tòa đại sứ mỹ năm 1965, cùng với chiến sĩ đặc công phạm văn dẩu và sinh viên yêu nước lê hồng tư đã dũng cảm trổ máy ngói khám tử hình vượt ngục tuy cuộc vượt ngục bất thành trong vòng 10 ngày sau ba người tửtù điều bị địch bắt lại song cuột vượt ngục ấy đã làm rung động bộ máy cai trị nhà tù côn đảo, địch phải gấp rút cho giăng dây thép gai kín trên nóc các phòng giam.
Banh I : là điển hình của chế độ khổ sai giết tù. Hầu như mỗi mảnh đất Côn Đảo đều khắt sâu nổi cực nhọc và thấm máu của người tù khổ sai. Trong sự đọa dày khốn cùng, những người cộng sản, những người yêu nước việt nam ở đây phải quyết định vân mênh hoặt là chịu chết mỏi mòn, hoặc là đâu tranh để sống trở vê tiếp tục hoạt động cách mạng họ phải chống chọi cả một bộ máy khủng bố từ tên chúa đảo đến đám gác ngục và bọn cập rằng tay sai. Điều đó đòi hỏi những người tù cộng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẻ, hình thức đấu tranh thích hợp.
Trước cách mạng tháng tám 1945 một chi bộ đặc biệt được thành lập tại đây đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu của người chiến sĩ cách mạng trong nhà tù và lòng trung thành với Đảng được đặt lên hàng đầu.
Tiếp theo lời kháng chiến chống pháp, những người tù chính trị ở banh một đã tổ chức ra liên đoàn tù nhân côn đảo (1947) và đảng ủy nhà tù (1950), sau gọi là đảo ủy. Liên đoàn tù nhân được tổ chức chặt chẻ ở từng trại từng phòng từng kiếp tù cho đến tận mâm ăn, tổ nhóm, giống như một cơ quan quyền lực của tù nhân.
Banh một đã trải qua 113 năm với bề dày lịch sử ngang tuổi nhà tù còn lưu lại nhiều dấu ấn anh hùng trong cuộc đấu tranh lâu dài và bất khuất của những người yêu nước và Cách Mạng Việt Nam trong nhà tù thực dân đế quốc.

NGHĨA TRANG LIỆT SỸ HÀNG DƯƠNG

          Nghĩa Trang Hàng Dương được quy hoạch rộng 190.000 m2, gồm 3 khu: khu A, khu B, khuC. Theo số lượng ước tính có khoảng 20.000 tù nhân đã chết ở Côn Đảo. Tuy nhiên không phải tất cả đều nằm ở Hàng Dương. Nghĩa địa tù được lập ở khu vực Chuồng Bò, sau dời lên Hàng Keo. Từ năm 1944, chế độ khủng bố trắng sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã giết hại hàng ngàn tù nhân. Nghĩa địa Hàng Keo hầu như hết chỗ, thực dân Pháp mở nghĩa địa Hàng Dương để chôn tù. Tính đến ngày Côn Đảo hoàn toàn giải phóng (1975), nghĩa trang liệt sỹ này đã tròn 35 tuổi. Trong vòng 35 năm ấy, ước tính khoảng 6.000 tù nhân bị giết hại.
          Khu A nghĩa trang, nơi có phần mộ cũ Nguyễn An Ninh và đồng chí Lê Hồng Phong là nơi chôn những ngôi mộ đầu tiên. Mỗi người tù xấu số được liệm bằng 2 chiếc bao bàng (đan bằng loại cỏ ống), cột 7 nút lại, rồi đưa ra vùi chung một hố.
          Năm 1944, khu A đã chôn chật mộ, nhà tù đã mở rộng nghĩa trang về phía Nam, tức khu B hiện nay. Hài cốt lớp tù nhân kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) được chôn kế tiếp từ đồi cát chạy dài xuống phía Đông Nam, nơi có phần mộ người thiếu nữ anh hùng Võ Thị Sáu.
          Hài cốt lớp tù nhân chống Mỹ được chôn tiếp vào phần còn lại của khu B và chôn tiếp qua khu C. Gần 500 tù chính trị câu lưu chống ly khai Đảng Cộng Sản trong những năm 1957 – 1963 được chôn trong khu B.
          Mỗi ngôi mộ ở nghĩa trang này không chỉ là một số phận bi hùng, một chứng tích tội ác của thực dân đế quốc mà còn âm vang những trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh trong tù, tỏa sáng chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
          Sân hành lễ nằm ở trung tâm nghĩa trang với một tượng đài mang hình tượng Trao Áo. Tượng đài cao 9m, nặng 25 tấn được khởi dựng ngày 16/7/1980. Dưới chân bức tượng có ghi “Vĩnh biệt các đồng chí”. Tượng đài được tái tạo từ câu chuyện”Chết còn cởi áo trao nhau”. Người trao áo là ông Vũ Văn Hiếu, nguyên là Bí thư đầu tiên của đặc khu mỏ Hòn Gai (tháng 10/1930). Người nhận áo nguyên là cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn.
          Nghĩa trang Hàng Dương được bảo tồn như một di tích lịch sử đặc biệt. Nghĩa trang Hàng Dương với hàng ngàn nấm mộ có tên và không tên là bằng chứng hùng hồn về tội ác của đế quốc, thực dân đối với dân tộc ta. Đó là nơi yên nghỉ của hàng ngàn người con ưu tú của dân tộc ta, đã đối mặt với kẻ thù giữa lao tù, xiềng xích, trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.      

THÔNG TIN:
TT - Sáng 12-11, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã khánh thành cầu Chà Và - cây cầu nối thôn đảo Gò Găng với trung tâm xã Long Sơn, TP Vũng Tàu. Cầu được khởi công xây dựng từ tháng 6-2009, với tổng mức đầu tư 850 tỉ đồng và là cầu dài nhất khu vực Đông Nam bộ với chiều dài hơn 1,1km.
Việc có cầu này cùng với việc đưa vào sử dụng cầu Gò Găng từ năm 2007 (nối thôn Gò Găng với quốc lộ 51, đoạn thuộc P.12, TP Vũng Tàu), đã xóa sổ “ốc đảo” cuối cùng của TP Vũng Tàu.
Cầu Chà Và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và là một trong những hạng mục hạ tầng quan trọng chuẩn bị cho các dự án trọng điểm tại Long Sơn sẽ đi vào hoạt động như: sân bay Vũng Tàu, khu chế biến hải sản tập trung tại Gò Găng, khu công nghiệp dầu khí, Nhà máy lọc dầu Long Sơn...
Có cầu Chà Và, gần 200 hộ dân ở thôn Gò Găng được đi lại thuận tiện qua trung tâm xã hay về TP Vũng Tàu - vốn trước đây phải đi bằng thuyền hoặc đi đường vòng rất xa. Ngoài ra, khi có cầu, điện nước cũng sẽ được kéo đến phục vụ bà con thôn Gò Găng. Hiện các hộ dân ở đây phải dùng bình ăcquy hoặc điện bằng năng lượng gió để sinh hoạt, xem tivi và chưa có nước sạch để dùng.
Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!